Thứ Bảy, 18 tháng 1, 2020

“NHÀ VĂN VIỆT-NAM HẢI NGOẠI
– Nhận định về 73 tác giả”
(Trích)



Đỗ Quyên tên thật Đỗ Ngọc Thủy, sinh năm 1955 tại Hà Nội. Giảng dạy đại học ở Hà-Nội, 1988 sang Nga tu nghiệp và ở lại, cuối cùng định cư ở Canada từ 1996. Sáng tác thơ, truyện, phê bình, khảo cứu; đồng sáng lập và chủ biên một số báo chí, diễn đàn; cộng tác với nhiều tạp chí văn nghệ Việt hải ngoại và nhiều báo chí trong nước.
Tác phẩm đã xuất-bản: Nhìn Cây Thấy Rừng (Phỏng vấn chuyện nước non; Westminster CA: Văn Nghệ, 1997) – Thơ kể – Poetry Narrates (NXB Lao Động- Hà Nội 2010 & Nxb Tân hình thức, California 2010) – Lòng Hải Lý (Trường ca; Hà Nội: Hội Nhà văn, 2011) – Trung-Việt Việt-Trung (“tiểu-thuyết thời sự”; Westminster CA: Người Việt Books, 2016) – Trường ca Việt Nam: tác giả và tác phẩm (Tài liệu tham khảo; Hà Nội: Hội Nhà văn, 2017) – Đẻ Sách (“tiểu thuyết châm biếm”; Westminster CA: Người Việt Books, 2018).




*
Văn chương hải ngoại đã có những tìm kiếm hình thức, một số nỗ lực đổi mới thi ca và thể-loại tiểu-thuyết, v.v. Thoạt nhìn và nhất là qua các ấn phẩm chúng tôi có được, tính văn-học hoặc giá trị “sống còn” dĩ nhiên là khả dĩ, nhưng cho ai và tới thời nào thì chỉ có thời-gian mới có thể trả lời. Về thi-ca cũng như tiểu-thuyết, nhà văn nhà thơ phải luôn cách tân, tìm tòi, nếu không, sẽ rơi vào sáo mòn của truyện kể hoặc ca-dao. Văn xuôi thì có trường hợp Đỗ Quyên với hai tiểu-thuyết Trung Việt-Việt Trung “tiểu-thuyết thời sự” và Đẻ Sách “tiểu thuyết châm biếm”.
Trung-Việt Việt-Trung được tác giả chú là “tiểu-thuyết thời sự” viết về quan hệ căng thẳng hiện nay giữa Việt Nam và Trung Quốc và sự bất lực của người trí thức trước tình thế, khởi từ biến cố giàn khoan 981 từ tháng 5 năm 2014. Hình thức gồm thông tin thời sự, phóng sự tưởng tượng, tường thuật báo chí và truyện kể. Nhìn chung, Trung-Việt Việt-Trung như một đề cao cảnh giác, hoặc như một tiếng kêu thương cho tương lai và dân tộc.
Đẻ Sách với tiểu tựa “tiểu-thuyết châm biếm”, tác giả cho biết là “cuốn truyện đầu lòng” sau các tập thơ và “tiểu-thuyết thời sự” đã xuất bản. Ý chính nếu nói ngay là chuyện “người ăn thịt người đẻ sách” thì khó hiểu, khó hình dung, tưởng tượng, nhưng nếu độc giả sẵn sàng nhập cuộc sanh đẻ thì có thể phong cho tác giả là một “chiến sĩ văn hóa”… dũng cảm nhờ đa ngôn lênh láng, thuần lý, phi lý, vô lý và lắm lời khiêu khích, châm biếm.
Chương Mở “Thai phu” như một món khai vị cho những món chính có thể… khó nuốt đến sau. Chương này kể chuyện đi… phá thai của nhân vật có cái dương vật “chút núi non da thịt gọn ghẽ … không muốn đưa ra ánh sáng những giấc mơ thai phu”. Nhân vật “tôi” thích thú và quen ăn món “nhau bà đẻ”,“bởi miệng hợp vị thôi chứ không hẳn vì nghe người lớn xui dụ ăn nhau bổ máu. Tin tôi đi, nhờ chịu được chất bổ kỳ dị đó tôi sớm hiểu biết và từng trải nhất nhà, tới nay đã thành nhà văn” (tr. 13). Ăn nhau nhiều nên bị thai đòi nợ phải trả chăng?
Chương 1 “Tim của ai cũng được”, nhà-văn-tim – gọi thế vì y “ăn tim” nghĩa là lấy cảm tình người ta để có thể đi sâu, moi móc, khai thác chất liệu đời tư và tầng sâu tư tưởng. “Nhà văn ăn tim cho biết những trái tim của ai cũng được. Ông không câu nệ giới tính, nghề nghiệp, sắc tộc, tuổi tác… Mà chọn theo gu của ông. Cần nhất nó phải tươi, còn thoi thóp co bóp thì tuyệt. Thế thôi. Đương nhiên phải là tim của chính những người tôi muốn…”. Như “tim của ngài Stewart thì làm nhiệm vụ thợ cày cho một tiểu thuyết gia: tìm chi tiết, kiếm nhân vật, rồi theo thế mà viết. Sòn sòn là đô sòn! Mỗi ngày cứ việc đẻ ra năm, bảy trang, ví dụ vậy. Ừ, mỗi cô dâu – nhất là các cô dâu da màu và lai – tận tụy hóa thân trong cơ thể nhà văn của chúng ta để tái sinh nơi trang sách. Họ làm vậy đâu chiều lòng nhà văn, hay muốn dự phần vào kho tàng nhân vật tiểu thuyết của nhân loại” (tr. 19, 31).
“Tôi” rồi cũng có nhận xét về ăn-tim: “Những người viết ăn tim người đẻ ra sách văn học không nhiều bằng các loại người viết tương tự khác. Thoạt tiên, cứ tưởng có thể suy luận giản đơn rằng công việc văn chương chủ yếu xuất phát từ con tim, nên cần tim hơn; số lượng nhà văn ăn tim sẽ nhiều hơn. Nếu thế hai với hai đã thành năm từ thời Pythagoras! Thực tế ngược lại. Trong cái làng văn ăn thịt người đẻ sách, có phải cứ muốn ăn tim là ăn được, muốn không ăn tóc thì không ăn đâu! Hoặc đó là cái nghiệp mạng; hoặc đó là sự khó hiểu đáng nể của giới cầm bút” (tr. 36).
Chương 2 “Theo chân những người tỵ nạn”: bà luật sư “ăn chân” – ăn chân người tỵ nạn, tức ăn-theo hồ sơ của những người di dân, lao động. Còn David O’Donovan (danh tính gợi tên tác giả ĐQ), ông nhà văn ăn-tim, bỏ viết và hành nghề nhà báo chuyên làm phỏng vấn. Ông ta và bà luật sư di trú thay nhau châm biếm dân tỵ nạn, giới làm báo viết văn ở hải ngoại, giới phê bình văn học, vài lãnh tụ, rồi vài biến cố lịch sử. Đặc biệt làng báo, làng văn và giới phỏng vấn, phê bình văn học ở hải ngoại, được chiếu cố tận tình. Nguyễn Hưng Nước: “… Nguyễn Hưng Nước. Nước. Hồi nhỏ, thằng cu Nước. Thế thôi. Thế mà các bác trong nước tệ bạc quá, đi xuyên tạc tên chân chất của con cái người ta thế này: Nước tức là Quốc. Hưng Quốc là Phục Quốc! Thôi, trôi đời con mẹ hàng lươn! Từ chuyện khai thông dẫn nước nhà nông về cày cấy ruộng đồng mà chính Phạm Thủ tướng tiên phong bổ nhát cuốc đã bị hóa thành chuyện chính trị phản động lật đổ! … Thế nhưng bác này cầm tinh con đỉa hay sao ấy mà bị các bác trong nước thù dai. Trước kịch bản ‘Luận về Cặc’, Hollywood có đặt bài làm phim nhi đồng, bác Nước bèn chọn con cóc làm nhân vật, lấy lời thơ con cóc nhảy ra con cóc nhảy vào làm nền ý tưởng. Khẩu khí rất nhà quê. Bọn tỵ nạn chúng tôi và cả cánh thuyền nhân đọc, vui lắm! Kịch bản không tục tằn. (Cóc thì xếch-xi cái cóc gì!). Thế nhưng không hiểu sao Nguyễn Hưng Nước bị trong nước đặt hỗn danh ‘nhà văn Cóc’. Rồi sang ‘nhà văn Cặc’. Thì cũng vui thôi. Dân làm báo làm văn cứ thế mà réo tên ‘ông Cặc Cóc’. Chính khổ chủ cũng vui! … Hồi kết mới thật là vui ra nước… miếng! Chuyện hay thế đời nào anh ngủ gật. Nghe đây: Tại phi trường Tân Sơn Nhất, khi bác Hưng Nước theo nhóm làm phim Hollywood về Việt Nam công cán, mọi người khác Mỹ, Việt, Tây, Tàu, Ấn, Mễ vào êm ru, riêng bác lại không được vào…”. Lý do: “… trở lại với Cặc của chú, í lộn, Cặc trong file của chú: Chữ này ở dạng báo động xanh. Anh thiếu tá trưởng phòng chúng con có thể để chú qua cửa khẩu với đơn cam kết. Còn chữ Cóc bị báo động đỏ, chú ơi. Thượng cấp có quân hàm cao đến mấy tới can thiệp, software cũng sẽ không nhân nhượng. Trừ khi Liên Bộ An ninh và Tin học ngồi xuống làm lại hệ thống báo động với software mới. Bi giờ chú mà lọt qua cửa mình con, vâng ý là cửa khẩu một mình con ngồi đây, máy móc sẽ kêu toáng cả lên… Dạ xin chớ nóng tánh. Chú bảo giùm các anh chị và các bạn Mỹ ở ngoài cứ bình tĩnh. Không hạn hán làm sao có cóc! Cái gì cũng mang lý do của nó. Chúng con được phép giải thích như sau: Chữ Cóc là taboo vì liên đới tới cụ Nguyễn Hữu Đã. Chú làm văn nghệ, không thể không biết vấn đề đã xảy ra với cụ Đã. Thôi nha, bái bai! Mời chú ra phòng ngoài để làm thủ tục quay lại Mỹ trong chuyến sớm nhất. Con cảm phiền, phải làm việc tiếp… Next, please…” (tr. 115, 117). Cũng như vài nhà phỏng vấn “đương đại hải ngoại” đồng nghiệp (dư) khác. Cũng như chủ nghĩa cộng sản được phê phán một cách “bác học” qua một nhân vật nữ chuyên “đánh” và “đụ” khác: “Với linh cảm của người nữ chiến binh từng trải qua chiến trường ác liệt và có khao khát tình ái – tất nhiên cả tình dục – chị cho rằng, chủ nghĩa cộng sản là một người đàn ông tuyệt tốt đẹp nhưng không mang khả năng sinh đẻ, một sĩ quan được huấn luyện cừ khôi mà không có năng lực chiến trường bom lửa. Đấy như một người tình trăm năm lý tưởng, một sĩ quan tham mưu sa bàn văn phòng… Kế đến, về cái thắc mắc sốt ruột rất dễ thương và đáng trách của em Hoài Nam. Này nghe đây, chị bảo cho mà biết: Em ăn gì mà em chậm hiểu vậy? Ghét tức là Đánh, là chiến tranh, là diệt nội (chiến), là chống ngoại (xâm). Trước khi qua đây xuất khẩu lao động, ở miền Nam em học lịch sử được mấy điểm, trường nào lớp nào, thầy cô nào dạy? Yêu là cái ‘vụ ấy’ đấy. Qua Bun mấy năm rồi sao Hoài Nam của chị vẫn hiền như ma sơ thế ư? Ồ, cho chị nói thẳng như người Nam của em là đụ mới hay. Gọi con mèo là con mèo sẽ ra bản chất. Ngôn ngữ lúc này trở thành sự vật…” (tr. 105). Chương này qua nhân vật bà luật sư di trú Tabitha McAmmond, tác giả đã bàn/nói đủ chuyện đông-tây, kim cổ, chuyện người và nhất là chuyện ta – ta là ông Đỗ Quyên. Từ văn hóa cụ thể đến văn hoa trừu tượng. Từ chuyện mặc cảm “đầu gối củ lạc” – đầu gối người Việt có tính tình dục” (tr. 144+), “học … đéo’” (tr. 95+) vì “dù di dân sang xứ Đức rồi, vẫn coi chuyện làm tình là nhậy cảm. ‘Lói ra ló cứ nàm thao ấy!’”, cho đến việc đụng chạm … phụ nữ (“Xe hơi là thứ đàn bà không biết mệt trong cuộc làm tình với đàn ông của hai thế kỷ 20 và 21. Nó lấy đi không chỉ tiền bạc, sức lực là hai thứ đàn ông làm chủ. “Mụ đàn bà hồi xuân” – các giấc mơ xe hơi – làm tiêu hủy rất nhiều nhân tài khi mà sự đam mê của họ bị chia trí. Còn các tôn giáo, nhất là đạo phái. Thì cũng là đàn bà. Tôn giáo là loại đàn bà lưỡng tính. Nó hấp dẫn phụ nữ vô cùng nhanh chóng, bởi cùng là đàn bà. Nó thu phục đàn ông dễ dàng như chuyện trai gái ngoài đời”; tr. 65-6)
Phải nể ông Đỗ Quyên vì chương 2 dài nhất và cũng nhất về “c.” cũng như về “đ’.” của dân Bắc tức “đụ” trong Nam; ông “kiểm duyệt” (hoặc … kị!) lời ăn tiếng nói của nhân vật miền Bắc, còn dân Nam thì “có sao nói vậy người ơi”!
Chương 3 “Diễn đàn tóc” với nhà viết kịch ăn-tóc. “Ăn tóc” lâu hơn “ăn chân”, vì khó tiêu hóa! Đó cũng là thảm họa của giới nhà văn và cả Văn bút thế giới PEN (!): “tất cả các ông bà văn sĩ đều thủ dâm dưới mọi hình thức khi hành nghề. Chúng tôi còn hay tin đồn thổi thậm chí có trường phái cho rằng bản thân việc viết đã là hành động thủ dâm suy tư, ý tưởng bằng ngôn ngữ, chữ viết” (tr. 158). Nhà viết kịch “ăn tóc để hành văn, xơi tái các ngón tay chỉ để thỏa mãn dục vọng. Kể cũng tội cái nghiệp văn ăn thịt đồng loại ở Nhà viết kịch Ăn-tóc của chúng ta”, phải chăng vì “Kịch luôn có đĩ tính là xung đột. Không đĩ tính xung đột, không thành kịch; người ta quen nói là kịch tính. Mà thuật ngữ sinh tử này của ngành kịch nghệ được dùng trong xã hội, cuộc sống phổ biến tới mức người đời coi phép so sánh “Thiên địa đại hí trường, hí trường tiểu thiên địa” như định luật tương hỗ đời và kịch…. Có lẽ để tránh cho đám cập kê bọn teen khỏi bị sốc và cũng ngại đối diện các nữ quyền gia, người ta bèn gọi đĩ tính của kịch là kịch tính. Khỏe!”. Thi ca qua “nhà thơ Tự-ăn-tóc” và phê bình văn học cũng được “chăm sóc” tận tình!
Chương 4 “Người từ lòng bàn tay mà ra” thêm một lần “ăn” lý luận phê bình văn học vì có thể để “đẻ sách”. Từ những câu có vẻ tầm thường được giới lý luận phê bình chiếu cố, như câu thơ “Bàn tay ta làm nên tất cả” rồi đi sang vấn đề “Mút”. Và lan sang cả chuyện tịnh phái: “Có cặp đôi Đông-Tây gặp nhau về căn bản nội dung, tuy hình thức khác nhau, thậm chí trái ngược nhau: Nam-Nữ. Một mâu thuẫn nhị nguyên giằng xé nhất và nhân bản nhất con người vừa chịu đựng vừa hân hưởng. Nữ quyền, Đồng tính luyến ái chính là hai đứa con – một đứa nam, một đứa nữ – được ra đời khi xung đột Nam-Nữ vụt nảy sinh và cọ xát kịch liệt. Công cuộc lựa chọn bản thân là đàn ông hay đàn bà, thực ra, mang tính chất sinh tử nhưng rất ôn hòa, và nó không hề giản đơn như bộ môn giới tính ở các đại học vẫn rao giảng. Sự giằng xé làm búa (Nam) hay làm đe (Nữ) thường được thực hiện trong giấc mơ. Lucien Morgan cho rằng, ngay ở những người “thẳng” trong sinh lý chỉ thuộc về một trong hai đối tượng, nhưng về tâm lý thì… cong queo: không thuộc về búa cũng chả là đe. Mà kết hợp cả hai; và một trong hai đối tượng búa-đe vượt trội lên. Điều thú vị, sự tương đồng giữa búa-đe lại khống chế được sự khác biệt. Dích dắc ở chỗ nếu ai có tâm lý trưởng thành về giới tính sẽ tự phân biệt được sự giống nhau và khác nhau của đe và búa” (tr. 209).
Chương 5 “Độc giả ăn tác giả” hay “người-ăn-theo-tác-giả”, chuyển tải thư của độc giả hoặc Đỗ Quyên đứng (giả và thực!?) về phía độc giả để phê bình nhiều “nhà” trong tương quan xa gần với cuốn Đẻ Sách: “Đẻ Sách mới là cái bàn đẻ cho độc giả vào đẻ chung!”(tr. 272).
Chương kết “Tuyên ngôn của Chủ Nghĩa Ăn Thịt Người Đẻ Sách” như một hệ thống hóa lý thuyết về sáng tác, làm báo, làm văn mà tác giả đã gần 10 năm suy nghĩ!
Toàn tập tiểu thuyết tả chân theo trường phái hiện thực thổ tả, bên cạnh những lối bóng gió, ẩn dụ, châm biếm, và lý lẽ trí thức đậm đà; tất cả liên tục tiếp nối nhau như một liên-văn-bản. Truyện còn cho thấy tác giả có khả năng tự trào đáng kể. Nhờ bản thân đã sinh sống ở nhiều Châu (hình như ông chưa sống ở Phi châu?), nên kinh nghiệm cộng đồng, văn nghệ hơn người và làm văn học trong-ngoài đầy đủ nên ông đã có nhiều nhận xét, quan sát hiện thực đởi và hiện thực giới chữ nghĩa và xuất bản, báo chí cũng như sinh hoại của các chủ nghĩa, lý thuyết. Nói một cách khác, Đẻ Sách đã như một toàn tập tiểu sử và sự nghiệp đời làm văn và làm báo cùng du lịch của ông Đỗ Quyên. Tuy “đại truyện” và có vẻ toàn cầu nhưng hơi tiếc là ông thiên về các sinh hoạt và nhân sự trong nước “hôm nay”, có thể vì đó vốn là nơi ông xuất thân và vẫn đi về. Các trích dẫn sách báo trong ngoài nước, internet và cả các tác phẩm, công trình của chính ông như phỏng vấn Đến Rừng Từ Cây, như tham khảo, nói giùm, lý giải mà cũng như thuyết phục người đọc rằng “ăn” và “đẻ” là ok, là chín chắn!
Đọc Đỗ Quyên không dễ; ông làm khó người đọc. Không dễ theo dõi, cần có kiến thức văn hóa, lịch sử… Thơ văn Đỗ Quyên vẫn được biết tới như những trò đùa chữ nghĩa – đùa nhưng con chữ và ý nặng nề; nay với Đẻ Sách, đặc tính này xem như đã đạt cao điểm. Một công trình đã xong, đã đóng nhưng vẫn mang tính hậu-hiện-đại mời gọi, khiêu khích và mở – tác giả vẫn để chỗ cho độc giả can thiệp tùy nghi. Đẻ Sách mang đồng tính “hôm nay” và “hiện sinh” có trách nhiệm, Đỗ Quyên muốn cải cách sáng tác, chúng tôi nghĩ thành công có phần hạn chế, thiếu người đọc hiểu được trò chơi văn hoa và hình thức thể loại của tác giả. Người đọc sẽ có ấn tượng Đỗ Quyên tự giải tỏa uẩn ức hơn là sáng tác văn chương!
*
Kỹ thuật là bận tâm của các tác-giả và nghệ sĩ, vì người đọc và người thưởng ngoạn nghệ thuật chỉ muốn thưởng thức cái được sáng tạo ra hoặc được viết ra! Như vậy, ngôn-ngữ và kỹ thuật văn-chương trở nên quan trọng, là cái riêng của mỗi tác giả, trong cách kể, cách viết, trong không khí mà tác phẩm tạo nên được! Cùng theo hậu-hiện-đại, nhưng Đỗ Quyên, Lê Thị Thấm Vân, Đặng Thơ Thơ,… mỗi tác giả một vẻ đặc thù riêng. Sức mạnh của bài thơ, bài văn hay tác-phẩm nghệ thuật là ở ý tưởng, mục đích, ở hình ảnh và ở nội dung, sứ điệp được chuyên chở hay nhắm tới. Một tác phẩm thành công theo thiển ý là khi có thể giúp người thưởng ngoạn hiểu biết, yêu mến và thực thi được những lý tưởng Chân Thiện Mỹ trong cuộc đời. Nhưng trước khi viết hay sáng tác, văn nghệ sĩ nên biết mình là ai, việc đó tùy thuộc vào việc nhận diện thực-thể, nội dung nền tảng là cái luôn hiện đại hóa, cập nhật hóa. Cơ cấu xã hội, văn hóa luôn sinh hóa, tiến tới phía trước để sống còn, trường tồn, vượt qua được những bế tắc và vấn đề trực diện. Nhà làm văn-nghệ cũng không thoát ra được vòng vây hiện-đại đó. Viết và làm nghệ thuật, là sống cuộc sống hiện thực, dù ở hải-ngoại hay trong nước, hôm nay và sau này! Viết là một biểu hiện cụ thể cái sống sinh động, biểu hiện của cuộc đi tìm ý nghĩa cho cuộc sống con người, cũng là cuộc tìm kiếm Chân Thiện Mỹ – như một sứ mạng. Sống như một người Việt hiện đại, hôm nay và như một người có văn hóa. Sống và truyền đạt lại cho đời những rung động, tình càm, tư tưởng xuôi cùng chiều với chân lý của đời sống hoặc đáp ứng, phản hồi lại thực tại và con người: có thể kết luận đó chính là sứ mệnh của nhà văn Việt-Nam hiện nay!
Nhà văn thường viết vì nhu cầu… viết hoặc vì một mục đích nhưng ít thấy vì sứ mạng thực sự văn nghệ. Đỗ Quyên cũng có vẻ để ý nhưng đến trang cuối của Đẻ Sách, ông vẫn như chưa thuyết phục được sứ mạng của ông. Văn-chương chết vì ngoài những ám ảnh, vũng lầy còn là vì văn hóa chết, tinh thần chết, nhường chỗ cho vật chất và tính toán, tham vọng của con người. Mà văn-chương chết sẽ đưa đến kiệt quệ tinh thần!
Vậy thì văn-chương có còn là thứ cần thiết không và cần thiết cho ai? Văn-chương có giá trị hay có thể hiện hữu tự tại không? Nhìn thị trường chữ nghĩa gần đây, nhiều người thấy văn-chương đã tự thu hẹp lại, chỉ còn là lịch-sử, là hồi ký, là đời tư, là tự thú cá nhân nếu không là văn nghệ kiểu karaoke và báo chợ: hồi ký, bút ký, du ký và những sản phẩm tầm phào đã giết sáng tạo và thưởng thức văn-chương. Thiển nghĩa nếu văn chương được quan niệm như là ý thức về hiện hữu và tồn tại, thì vấn đề bớt nặng nề. Văn-chương là mặt nổi của thực hữu, viết ra được tức cũng tỏ ra có được sức mạnh và có hành động, ra tay vì dù là sản phẩm tinh thần nhưng không thể tách nó ra khỏi đời sống thực hữu.
Ai cũng biết trong văn-chương, kỹ thuật, ngôn-ngữ khá quan trọng, bên cạnh nội dung, làm nên văn-chương. Ngôn ngữ thoát khỏi quy ước và tinh thần để tự do, canh tân, thì sẽ đạt đến một phạm trù khác của tư tưởng. Về phần tiểu-thuyết, người viết đến với thể loại tưởng là dễ này còn phải nắm vững kỹ thuật kết cấu và điều quan trọng là tác-giả còn cần có giọng văn riêng, có phong cách diễn ngôn đặc thù. Có người viết theo lối viết tiểu thuyết của Mỹ, Pháp, la-tinh hay đề cao kỹ thuật nay có vẻ cần thiết hơn nội dung của tiểu thuyết, v.v. Có người dùng một câu chuyện để ngụ ý, nhắn nhủ hoặc bất kể người đồng thời vì nhắm viết cho con người thời sau hay ở một không gian khác, v.v. Hậu hiện đại sáng tạo không chỉ giới hạn ở nội dung, mà cả ở cấu trúc, không khí riêng chung. Vẫn bám thể loại tiểu thuyết – qua sáng tác và lý luận – dù phúng thích, hoài nghi, thiển nghĩ vẫn có thể gọi Đẻ Sách là một hình thức “tiểu thuyết”.
Người viết và người đọc có thể là đôi bạn song hành (và cả đi ngược chiều), nhưng người viết có vai trò bước những bước khởi đầu. Có thể mỗi nhà văn có một số độc giả riêng của mình. Họ thường cùng đi chung với nhau trên từng chặng đường, có khi thích thú gặp gỡ nhau vì một tình tiết, một lời nói. Trong đủ đề tài từ chiến tranh, cách mạng, xã hội, lịch sử, đến những thay đổi của con người và tập thể.
Trước khi viết tiểu thuyết và làm thơ, Đỗ Quyên đã thực hiện “18 phỏng vấn chuyện nước non Việt tại hải-ngoại” (NCTR), với vài tai mắt cộng đồng, chính-trị và vài nhà báo nhà văn ở hải-ngoại đã thêm một lần cho thấy có những điểm dị giữa 2 nhóm người quốc-gia của miền Nam và người ra đi từ miền Bắc Việt-Nam về màu cờ, chính-trị, xã-hội, văn-hóa, v.v. nhưng tất cả có một số điểm đồng về đa nguyên chính-trị, quê-hương dân-tộc và ước nguyện tương lai – bởi đa phần người Việt sống thân phận xa quê-hương trong hoàn cảnh bi đát của đất nước, đều luôn tự vấn “tôi là ai?” và “dân-tộc Việt của tôi là ai?” như chính người phỏng vấn.
Đỗ Quyên tin tưởng và kỳ vọng nơi tương lai của văn chương, và với thiện chí, hy vọng họ Đỗ sẽ tiếp tục con đường ngoạn mục của văn học và báo chí.
Trích “NHÀ VĂN VIỆT-NAM HẢI NGOẠI – Nhận định về 73 tác giả”
NXB Nhân Ảnh, San Jose CA – 2020
Nguyễn Vy Khanh

XANH HAY TÍM



Nhớ lại một bài thơ cùng thuở chúng mình.




    
Em hỏi tôi "Yêu màu xanh hay tím?"
Tôi biết nói sao yêu màu tím hay xanh
Khi hoa xuân về nở trên cành
Muôn sắc muôn hương muôn màu rực rỡ
Tôi nhớ lắm những đêm dài không ngủ
Tình quê hương da diết cháy tâm hồn
Nhớ màu xanh bát ngát xóm thôn
Dòng sông xanh lững lờ uốn khúc
Mái nhà ai xanh màu khói biếc
Làng quê xanh bãi lúa nương dâu
Nhớ buổi hành quân nối bước theo nhau
Lá ngụy trang xanh màu chiến dịch
Xanh cánh rừng xanh rì rào suối ngọt
Buổi trưa hè xanh bát nước chè thơm
Xanh mái tóc trẻ thơ, xanh mái tóc người thương
Ôi đôi mắt em biển trời xanh thẳm
Nhớ tầu dừa xanh nghiêng mình soi nước
Trên cánh đồng xanh bát ngát phương Nam
Những cánh chim phơi phới bay ngang
Tôi yêu lắm màu xanh ước vọng.

Em hỏi tôi: "Yêu màu xanh hay tím?"
Tôi biết nói sao yêu màu tím hay xanh
Những con đường lầy lội chiến tranh
Đường ra trận lắm đèo nhiều dốc
Những người lính hành quân đánh giặc
Nhìn trời yêu màu tím hoàng hôn
Đồi hoa sim nở tím bên đường
Bếp lửa rừng khuya tím nồi gạo cẩm
Tôi đã viết những bài thơ đẹp lắm
Dưới vòm trời tím ngắt đêm hè
Những cánh buồm tím rộng tay che
Bên sông Hương rộn rã tiếng đi về
Cả mặt sông cũng lên màu tim tím
Màu tím áo em nón nghiêng che
Huế quê em hay một mùa hoa sim tím
Ôi màu hoa son sắt thủy chung
Những giọng hò mái đẩy trên sông
Nghe day dứt chồng thương vợ nhớ
Dù cách xa bên ni bên nớ
Đôi bờ vẫn một dạ thương nhau
Cánh nón chưa che chung cả đôi đầu
Trang giấy tím những dòng êm ả.

Em hỏi tôi: thôi cần chi nhắc lại
Khi mặt trời vừa rạng ánh bình minh
Tôi sẽ yêu mãi màu xanh
Màu tuổi trẻ tương lai màu hy vọng.
Tối hoàng hôn mặt trời xế bóng
Trái tim tôi màu tím sẽ thay xanh
Tâm hồn tôi vẳng khúc hát tâm tình
Và em ạ muôn màu đều rất đẹp
Trong lòng tôi mến yêu tha thiết
Xanh ước mơ và tím thủy chung.


Mai Ngữ

Thứ Bảy, 4 tháng 1, 2020

NHỚ BẠN



NHỚ BẠN!

Khi chưa đến mùa thi
Chương trình còn dang dở
Bạn tôi xếp bút nghiên
Khoác balô ra trận
Sách bút gói mang theo
Vẫy chào người ở lại
Chia tay cười rất đậm
Đến giờ còn chưa quên

Giữa mũi đạn hòn tên
Chiến trường nhiều khói lửa
Bom dội cây trụi lá
Suối đỏ dòng máu loang
Cuốn nhật ký dở dang
Sách nhuốm màu máu thắm
Bạn tôi mười bẩy tuổi
Từ buổi ấy không về

Rồi mỗi mùa thi đến
Hoa phượng lại rưng rưng
Thương bạn khi nằm xuống
Không kịp về đi thi

Lớp mình ngày gặp mặt
Bạn không về liên hoan
Bát cơm nhòa nước mắt
Bạn bè thầm gọi tên …
Dù chẳng còn ngồi bên
Dù bóng hình xa khuất
Dù âm dương cách biệt
Bạn trong tim chúng mình  .

Vào năm 2017 khi chúng ta chuẩn bị kỷ niêm 45 năm ngày ra trường. Tôi đọc danh sách của các  lớp 10    bỗng nhiên từng  tên bạn , từng khuôn mặt cứ trở về trong trí nhớ… Trong đó có những bạn không bao giờ gặp lại nữa . Tôi  nghẹn ngào viết những vần  thơ này .  “Nhớ bạn! ”.Khi đó chưa thành bài thơ  tròn trịa. Sau đó bạn Văn Trung gửi cho Việt Hòa 10 H để ghép nhạc cho bài thơ với ý định dùng cho buổi lễ kỷ niệm 45 năm . Bạn V Hòa đọc bài thơ và như một người lên “ lên đồng” đã viết tiếp vài khổ thơ nữa . Vậy là chúng tôi có một bài hoàn chỉnh .  Nhân dịp kỷ niệm 70 của trường Nguyễn Trãi chúng tôi xin gửi tới các bạn bài thơ trên 


Những người lính của chúng ta


                            NHỮNG NGƯỜI LÍNH CỦA CHÚNG TA

                                            Khóa 69-72 Nguyễn Trãi


    Khi nhìn thấy ảnh của 10 Liệt sĩ lòng tôi nghẹn thắt vì một cảm giác khó tả, vừa tự hào vừa chất chứa  một nỗi buồn nặng trĩu.  Bất giác, tôi nhớ  mấy câu thơ   trong sách giáo khoa từ khi chúng ta còn đi hoc “ Đất nước/ Của những người con gái con trai/ Đẹp như hoa hồng,  cứng hơn sắt thép/ Xa nhau không hề rơi nước mắt/ Nước mắt để dành cho ngày gặp mặt ...”
    Ngày ấy, chúng ta còn rất trẻ, khi tiễn các bạn lên đường nhập ngũ .Chúng ta náo nức, vui sướng và tự hào làm sao khi người bạn của mình cởi áo học trò, khoác trên mình bộ quân phục màu xanh lá rộng thùng thình, nhìn các bạn ấy rất uy  nghiêm trong bộ quần áo lính, dù thế vẫn không che được nét trẻ con, hồn nhiên vô tư của tuổi học trò. Giờ chia tay ,xe chuyển quân lăn bánh trên đường Kim Mã, các bạn xô vào nhau , chen nhau  thò tay ra cánh cửa vẫy chào bạn bè, chào mái trường thân yêu ! Còn bọn mình cứ chạy theo xe cho đến khi bóng xe khuất hẳn trên phố Nguyễn Thái Học. Đó là một buổi chia tay đặt biệt không thể quên. Thế mà đã gần nửa thế kỷ, kể từ khi chúng ta còn là những cô cậu học sinh lớp10.
     Hôm nay nhìn thấy ảnh các bạn, những ký ức xưa cũ lại ùa về, buồn vui lẫn lộn ... Những người bạn- những Liệt sĩ trên mũ có một ngôi sao. Trên cổ áo là quân hàm đỏ và nét trẻ , hồn nhiên của ngày xưa  vẫn còn hiện rõ trên khuôn mặt. Họ là những chàng trai trẻ đẹp nhất trên đời , không biết phân vân , chẳng hề lùi bước. Nhìn di ảnh của các bạn tôi đã khóc, nước mắt ràn rụa vì tôi đã bắt đầu già nên nước mắt rất dễ tuôn trào và cũng vì hành trình để các bạn trở về với mái trường xưa, với Thầy cô, với bạn bè rất...rất dài...
    Khóa 69-72 của chúng ta ở trường Nguyễn Trãi - khóa học phổ thông rất đặc biệt ;  năm học lớp 10 không có ngày bế giảng, trước kỳ thi khoảng 1 tuần nhà trường đột ngột thông báo học sinh về nhà tự ôn để chuẩn bị thi tốt nghiệp và kỳ thi sẽ diễn ra ở nơi sơ tán.Tiếp sau đó kỳ thi đại học cũng sẽ không tổ chức ở HN.
    Hồi đó, cuộc chiến tranh đang ở thời kỳ ác liệt, ngoài chiến trường vừa trải qua cuộc tổng tiến công Mậu Thân 68, với bao chiến công và cũng rất nhiều tổn thất.  Chiến trường đang cần lắm những người lính, các bạn trai không thể ngồi yên trên ghế nhà trường, cứ náo nức lên đường nhập ngũ. Tôi còn nhớ khi chúng ta còn học lớp 9, bạn Hiếu  9 H đã nhập ngũ 1/1971. Rồi năm học lớp 10 còn chừng 1 tháng nữa đến Tết Nguyên Đán  đã có đợt tuyển quân đầu tiên rất rầm rộ vào tháng 1/1972; riêng 10G đã có 5 bạn: Y Hòa, Trọng Bình, Chiến, Lương Hòa, Thái Hòa; lớp 10H có 6 bạn: Hữu An, Quang Vinh, Thái Bảo, Bá Dật, Lê Thành, Đỗ Định; lớp 10E có bạn Nho; lớp 10D có bạn Quý, bạn Châu Sơn, Công Thanh và nhiều bạn lớp khác nữa mà tôi không nhớ hết tên. Tiếp đó là những đợt tuyển quân tháng 3, tháng 4 dồn dập lại có thêm nhiều bạn cùng nhập ngũ: Đăng Hòa 10H, Hữu Bằng 10G,  Khắc Bình  10D, Vũ Bình 10C, Thiết 10A v.v..Khối 10 trở nên vắng vẻ, các lớp 10 đều trống  nhiều chỗ... Các bạn nhập ngũ ngày ấy không kịp dự kỳ thi TNTHPT nên được đặc cách tốt nghiệp. Thế nhưng, một số bạn  đã không trở về nhận tấm bằng tốt nghiệp năm đó, họ đã nằm lại chiến trường, một nơi nào đó trên đất Mẹ VN, và cũng có người nằm ở nơi ngoài biên giới. Bởi lẽ những người lính của chúng ta không chỉ chiến đấu vì TỔ QUỐC mà còn làm nhiệm vụ Quốc tế cao cả. Dù các bạn không trở về nhưng hình bóng các bạn vẫn còn mãi trong nỗi nhớ của mỗi chúng tôi. Chiến tranh đã lùi xa, nhưng chiến công và lòng dũng cảm của các bạn nơi chiến trường vẫn lưu truyền cho đến tận hôm nay.Tôi nghe kể rằng có bạn bị thương ở bụng, lòi ruột... mà nén đau dùng tay ép ruột vào tiếp tục chiến đấu cho đến hơi thở cuối cùng; có bạn bị bom sạt vào hầm, bị vùi dưới đất mà dùng tay cào, móc từng nắm đất chui ra, vượt qua lưới lửa của địch trở về với đơn vị. Rất...rất  nhiều câu chuyện kể về các bạn làm chúng tôi rưng rưng nước mắt, đau xót, nghẹn thắt... Tôi tin rằng, những người lính vào chiến trường năm ấy đều trải qua những gian khổ,những trận mưa bom, bão đạn ác liệt  hơn những gì chúng tôi có thể hình dung qua sách báo.       
     Tôi được nghe kể về tấm gương của 1  trong số 10 liệt sĩ của khóa chúng ta- Liệt sĩ Y Hòa.
Từ giã lớp học tuổi thơ để vào bộ đội không phải là hiện tượng lạ đối với lứa chúng ta ngày ấy. Nhưng bạn Y Hòa của lớp tôi đúng là trường hợp đặc biệt. Y Hòa là người dân tộc, con  của cán bộ miền Nam tập kết, không thuộc diện  nhập ngũ; khi thầy chủ nhiệm 10G – thầy Hà Tâm báo tin Y Hòa nhập ngũ chúng tôi hết sức sửng sốt, và càng bất ngờ hơn khi biết bạn đã viết đơn bằng máu để được vào chiến trường. Lúc đó, trong suy nghĩ của chúng tôi bạn ấy đã là Người anh hùng. Khi còn đi học bạn Y Hòa rất hiền, ít nói, ai trêu chọc cũng chỉ mỉm cười , bạn ấy ngồi ở bàn cuối lớp vì Y Hòa rất cao. Sau huấn luyện Y Hòa được điều động vào một trong những chiến trường ác liệt nhất thời bấy giờ - chảo lửa Quảng Trị .Nơi ấy vô cùng khủng khiếp , vô cùng gian khổ , chết chóc hy sinh chỉ trong gang tấc. Tôi đã đọc ở đâu đó, một tùy bút của nhà báo cũng là một người lính trước đêm ra trận nói rằng ”không biết có nơi nào nữa trên trái đất quyền làm người được bảo vệ bằng nhiều máu đến như vậy không?”
     Y Hòa chiến đấu rất dũng cảm, trưởng thành nhanh trong quân đội và trở thành Trung đội trưởng của Trung đoàn bộ binh 209, Sư đoàn 312. Là một người chỉ huy giỏi, can đảm Y Hoà trở thành một tấm gương sáng trên mặt trận Quảng Trị, được xây dựng là hình tượng người Anh hùng. Sư đoàn đã quyết định đưa bạn ra Bắc tiếp tục đào tạo. Song tình hình chiến trường Quảng Tri lúc đó rất cam go, ác liệt, quân định mạnh hơn ta cả về  quân số và khí tài. Nhận thức rõ tình hình và với trách nhiệm của người chỉ huy Y Hòa đã xin cấp trên được ở lại tiếp tục chiến đấu cùng đồng đội.
   Là người chỉ huy, Y Hòa sử dụng khẩu súng cỡ lớn 12, 7ml, hỏa lực mạnh có thể bắn được cả máy bay và xe pháo mặt đất. Dù biết, người sử dụng súng đó chính là mục tiêu mà quân địch nhắm tới nhưng Y Hòa không hề nao núng. Trưa ngày 16/10/1972 quân địch ồ ạt tràn lên  Đồi Cháy nơi đơn vị của Y Hòa chốt giữ . Trước sự tấn công mạnh của địch, súng nổ rần rần... Y Hòa không chút ngần ngại nhảy vọt ra khỏi chiến hào chúc nòng súng xuống đồi  bắn thẳng vào lũ giặc đang xông lên, làm tan rã đội hình của chúng. Chính ngay lúc đó địch bắn trả dữ dội về phía Y Hòa và bạn ấy đã trúng đạn tiểu liên cực nhanh của Mỹ, xuyên qua đầu. Y Hòa hy sinh tại trận. Đồng đội đưa anh xuống và đêm đó chôn cất Y Hòa ở đồi Cháy. Cũng như bao người lính khác, Y Hòa bình thản vào trận, bình thản biết mình có thể ngã xuống và anh đã hiến dâng tuổi xuân cho đất nước, cho cuộc sống hòa bình hôm nay.
    Dù biết nơi Y Hòa hi sinh nhưng đến nay Gia Đình và đồng đội vẫn chưa tìm được hài cốt anh. Bởi lẽ, chiến sự quá ác liệt, bom đạn liên tục ném xuống, cày xới từng tấc đất, thi thể của các liệt sĩ dù đã được chôn cất vẫn bị hất tung lên vài lần. Xót thương Y Hòa và những người lính đã hy sinh. Các bạn – đồng đội của Anh  (Thanh Sơn, Vũ Chung, Quang Vinh ...) đã nhiều lần vào khu vực đồi Cháy tìm hài cốt mà không được  bèn chung tay xây dưng một Ban Thờ - nơi chốn yên nghỉ cho các liệt sĩ , ở đó có tấm bia ghi danh liệt sĩ Y Hòa, Lê văn Nho của chúng ta và liệt sĩ Chấn Hưng ở khóa trên. Những di vật của Y Hòa, chiếc bút máy Kim tinh cùng cuốn vở ghi chép được chuyển về cho gia đình. Người A trai của Y Hòa – anh Y Nguyên cũng chỉ mang được một chút đất từ đồi Cháy về Tây nguyên xây mộ cho Y Hòa.
    Các bạn của chúng ta - Những người lính trở về sau chiến tranh , dù mang trong mình những mất mát cả về thể xác lẫn tinh thần, những cơn đau vẫn hành hạ, dày vò  họ mỗi khi trái nắng trở Giời... nhưng họ vẫn luôn lạc quan, vươn lên trong cuộc sống, đóng góp cho xã hội, làm giàu cho gia đình , trở thành những người chồng, người cha mẫu mực. Họ luôn tự khẳng định giá trị của mình. Tự trọng không muốn trở thành đối tượng của chính sách. Họ đã sống và làm việc thay cho cả những người lính đã hy sinh và luôn nhớ về đồng đội. Thật đáng khâm phục!
        Hàng năm vào dịp 27/7  đồng đội cũ của Y Hòa như Thanh Sơn, Quang Vinh, Vũ Chung  và một số bạn của K22 ...đều trở lại chiến trường xưa để thắp nhang cho những người nằm dưới cỏ; thả hoa trên dòng sông Thạch Hãn nơi có bạn Đăng Hòa của chúng ta nằm lại đó . Anh Thương binh Vũ Bá Dật dù trên người đầy vết thương nhưng vẫn khoác ba lô âm thầm lặng lẽ vượt rừng ,suối sâu  đi tìm  đồng đội, mỗi chuyến đi như thế vết thương của anh càng nặng hơn, đau hơn... Còn gì đẹp hơn thế! Những chiến công giữa năm tháng bình yên của người chiến sĩ trong cuộc đời bình dị. Nghĩa cử đền ơn, đáp nghĩa cao đẹp của các bạn làm chúng tôi day dứt… Tình bạn, tình yêu thương đồng đội  thật cảm động biết bao!
    10 liệt sĩ của khóa ta và đồng đội là những Người Anh Hùng. Họ  đã viết lên khúc Tráng ca bất tử cho muôn đời sau. Cuộc sống hôm nay đổi bằng máu xương tuổi trẻ của bao nhiêu người. Biết bao cuộc đời đã chấm dứt để cho cuộc đời khác được tươi xanh. Nếu không có sự hy sinh của các bạn không biết chúng tôi có được tiếp tục con đường học tập và có được cuộc sống hòa bình hôm nay ?
   Các bạn ấy đã sống, chiến đấu và rồi hy sinh nhưng các bạn không mất đi để 47 năm sau chúng ta được gặp lại. Các bạn đã cho chúng tôi những bài học hay nhất, đẹp nhất, lãng mạn nhất về sự sống, cái chết của thời chiến tranh giữ nước.
     Dẫu biết là không thể nhưng chúng tôi vẫn ước, phải chi các bạn ấy còn sống để cùng trở về thăm lại mái trường xưa, về lớp của mình, ngồi vào chỗ... của ngày xưa ấy và thêm một lần nữa, lại ngước nhìn bảng đen phấn trắng, nghe những bài giảng văn hùng hồn, bay bổng và sâu sắc của Thầy Văn Tâm kính mến! Những câu thơ “ Ôi Tổ Quốc mà ta yêu quý nhất/ Chúng con chiến đấu cho Người sống mãi Việt Nam ơi!“ vẫn còn khắc ghi trong trí nhớ chúng ta và có lẽ cũng trở thành hành trang của người lính trên đường ra trận.
           Các bạn Y Hòa, Đăng Hòa, Khắc Bình, Lê Hạnh, Châu Sơn, Công Thanh, Tá Quý,Thái Lai, Văn Nho, Sĩ Thái ơi! Hương linh các bạn đang ở đâu, có nghe lớp mình điểm danh ? Khi viết những dòng này tôi như nhìn thấy từng cuộc đời đẹp đẽ và sự hy sinh vô bờ bến của người chiến sĩ. Xin làm  một nén nhang dâng những người đã hiến trọn cuộc đời cho Tổ Quốc! Các bạn vẫn mãi mãi ở tuổi 20 đẹp nhất!  
   ( Cám ơn các bạn Thắng 10D, Kim Vinh 10G, Việt Hòa 10H  đã lưu giữ những thông tin quý giá về các Liệt sĩ . Đặc biệt cám ơn bạn Quang Vinh 10H – một trong số những người lính trở về từ mặt trận Quảng Trị  đã kể lại  câu  chuyện  cảm động về  Liệt sĩ Y Hòa ) .
                                                                                                                                                            Ngọc Hà 10g.