Thứ Hai, 30 tháng 4, 2012

MỘT NGƯỜI BẠN

  
21 tháng 4 năm 1975

Thứ Năm, 26 tháng 4, 2012

THÂN CÒ XỨ TUYẾT

Tác giả : Thanh Giang (Chemnitz, CHLB Đức)

Lời giới thiệu của tác giả : Tôi đi dạy học ngày cuối tuần, trên đường đi qua vài làng nhỏ, ở làng nào tôi cũng nhìn thấy những phụ nữ Viêt Nam bán hoa. Ngày nắng, rét, mưa, tuyết đều nhìn thấy họ. Đặc biệt người phụ nữ có hàng hoa cạnh cây cổ thụ là mẹ của ba đứa con học trong lớp tiếng Việt tôi dạy. Tôi rất xúc động khi biết điều này, xin gửi tặng những cô “Cò” chăm chỉ hết lòng vì con.


Dưới bóng cây cổ thụ đầu làng
Xung quanh vài cửa hàng thưa thớt
Người phụ nữ làn da tái nhợt
Bên hàng hoa rét mướt giá băng


Nửa khuôn mặt dấu trong chiếc khăn
Tay run run lật từng trang báo
Mỏi mắt kiếm tìm nơi ẩn náu
Trên quê hương biển bạc rừng vàng


Nơi xứ người sống kiếp lang thang
Thân phận “Cò” dọc ngang xứ tuyết
Tê dại đôi chân trong giá rét
Giữ hoa tươi làm đẹp cho đời


Dấu nỗi lo tươi tắn chào mời
“Nào thượng đế hoa tươi lắm đó
Tôi đem thân mình che chắn gió
Ủ trong tim hoa chẳng héo đâu”


Trong gió mưa bão tuyết trời Âu
Những cô “Cò” lặn hụp dãi dầu
Không quản tuyết, sương cùng tuổi trẻ
Ký ức quê hương chẳng nhạt màu


Bài học xưa: Đất nước đẹp giàu
Ruộng phì nhiêu cò bay thẳng cánh
Sao “Cò” vẫn kiếm tìm đất Thánh
Vượt biển, sông để đến nơi này


Trong giá băng không quản tháng ngày
Mong đem đến cuộc đời ấm áp
Tâm hồn trẻ thơ không bão táp
Học câu ca dao “Thẳng cánh cò ”


“Con cò lặn lội” trời Âu
Tuyết rơi mù mịt về đâu hỡi “Cò” ?
Tuyết, sương “Cò” chẳng thấy lo
Chỉ lo hoa hỏng thì “Cò” trắng tay.,.


(Van hac.org)


Gap lai noi dia dau To quoc


Mot vai hinh anh Thai Hoa gap lai TP Mong Cai(Tinh Hai Ninh cu) sau 45 nam xa cach , bai bien Tra Co la noi nghi duong tuyet voi va bua nhau dac san ech hoi ngo anh em Troi K6+K7 o Le Ngoc Han Ha Noi.

Thứ Tư, 25 tháng 4, 2012

CÂU HỎI CHO NHỮNG NGƯỜI ĐÀN ÔNG
Tác giả :Trương Nam Chi

Anh có còn yêu em không
Khi dưới lớp phấn son là làn da rám nắng?
Anh có còn mộng mị
  Nếu phát hiện ra em không có bộ ngực căng tròn?
(Như đã nhìn thấy em trong những buổi tiệc ngoài trời đôi khi kéo dài đến sáng!)
Thì những lời ca tụng
“Bà tiên của anh, Công chúa (đã từng ngủ trong rừng!) của anh…”
Có còn không?
Anh có yêu em không
Khi tin nhắn của em người đàn bà khác đọc
Anh có thú nhận rằng “anh yêu cô ấy – là em?”
Nói điều này có lẽ anh chẳng tin
Sau lấp lánh hào quang em trở về đời thực
Cũng cau có, cũng vui – buồn – bực dọc
(Có ai cười được cả ngày đâu!)
Anh có yêu em không
Nếu một ngày kia Thượng đế bỗng nổi trận lôi đình
mà chia em thành nhiều mảnh!
Thì ai (trong số các anh)
  có đủ bản lãnh
nhận về mình
một mảnh
vì yêu?

TT st

Thứ Ba, 24 tháng 4, 2012

LỜI CẢM ƠN

Gia đình chúng tôi xin chân thành cảm ơn các bạn cựu học sinh trường Nguyễn Trãi Hà Nội(K22),trường Nguyễn n Trỗi (K6+K7) đã đến viếng, phúng điếu, gửi vòng hoa, điện hoa, dự lễ truy điệu và tiễn đưa mẹ, bà, cụ của chúng tôi là :
Cụ Lương Yến Hồng
Sinh năm 1924; HCKC chống Pháp Hạng Ba, thường trú tại Khu tập thể BTCCP ngo 180  P115 phố Ngọc Hà, quận Ba Đình, Hà Nội; đã từ trần ngày 29-3-2012 ( tức ngày 08 tháng Ba năm Nhâm Thìn) hưởng thọ 89 tuổi, về nơi an nghỉ cuối cùng.
Trong lúc tang gia bối rối, không tránh khỏi sơ suất, gia đình rất mong được lượng thứ.
Thay mặt gia đình
Trưởng nam

Ngô Thái Hòa(10G).

Thứ Hai, 23 tháng 4, 2012

BÀI HỌC TUỔI THƠ
  Tác giả : Nguyễn Quang Sáng

Thằng con tôi 11 tuổi, học lớp sáu. Qua mùa thi chuyển cấp, nhân một buổi chiều cho con đi chơi mát, nó kể với tôi... Đang hỏi nó về chuyện thi cử, nó chợt hỏi lại tôi:
  - Ba! Có bao giờ thấy có một bài luận văn nào điểm 0 không ba? Con số 0 cô cho bự bằng quả trứng gà. Không phải cho bên lề, mà một vòng tròn giữa trang giấy. Thiệt đó ba. Chuyện ngay trong lớp của con, chứ không phải con nghe kể đâu.
Tôi chưa kịp hỏi, nó tiếp:
- Còn thua ba nữa đó, ba. Ít nhứt ba cũng được nửa điểm. Còn thằng bạn của con, con số không bự như quả trứng.
Thằng con tôi ngửa mặt cười, có lẽ nó thấy thú vị vì thời học trò của ba nó ít nhứt cũng hơn được một đứa. Số là cách đây vài năm, có một nhà xuất bản gởi đến các nhà văn nhà thơ quen biết trong cả nước một câu hỏi, tôi còn nhớ đại ý, nhà văn nhà thơ thời thơ ấu học văn như thế nào, nhà xuất bản in thành sách " Nhà văn học văn" . Đọc qua, nghe các nhà văn nhà thơ kể, tất nhiên là mỗi người có mỗi cuộc đời, mỗi người mỗi giọng văn, nhìn chung thì người nào, lúc còn đi học, cũng có khiếu văn, giỏi văn. Nếu không thì lấy gì làm cơ sở để sau này trở thành nhà văn? Rất lô-gích và rất là tự nhiên vậy. Duy chỉ có bài của tôi hơi khác, có gì như ngược lại. Tôi kể, hồi tôi học ở trường trung học Nguyễn Văn Tố (1948 - 1950), tôi là một học sinh trung bình, về môn văn không đến nỗi liệt vào loại kém, nhưng không có gì tỏ ra là người có khiếu văn chương. Và có một lần, bài luận văn của tôi chỉ được có một điểm trên hai mươi (1/20). Đó là kỷ niệm không quên trong đời học sinh của tôi, môn văn. Khi con tôi đọc bài văn đó, con tôi hỏi:
  - Sao bây giờ ba là nhà văn? Và bạn bè cũng hỏi như vậy. Tôi cũng đã tự lý giải về mình, và lời giải cũng đã in vào sách rồi, xin không nhắc lại.
Tôi hỏi con tôi:
- Luận văn cô cho khó lắm hay sao mà bạn con bị 0 điểm.
  - Luận văn cô cho " Trò hãy tả buổi làm việc ban đêm của bố" .
  - Con được mấy điểm?
- Con được sáu điểm. -
Con tả ba như thế nào? -
Thì ba làm việc làm sao thì con tả vậy.
  - Mấy đứa khác, bạn của con?
Thằng con tôi như chợt nhớ, nó liến thoắng:
  - A! Có một thằng ba nó không hề làm việc ban đêm mà nó cũng được sáu điểm đó ba.
- Đêm ba nó làm gì?
  - Nó nói, đêm ba nó toàn đi nhậu.
  - Nó tả ba nó đi nhậu à? - Dạ không phải. Ba nó làm việc ban ngày nhưng khi nó tả thì nó tả ba nó làm việc ban đêm, ba hiểu chưa?
- Còn thằng bạn bị 0 điểm, nó tả như thế nào? - Nó không tả không viết gì hết, nó nộp giấy trắng cho cô.
  - Sao vậy?
- Hôm trả lại bài cho lớp, cô gọi nó lên, cô giận lắm, ba. Cô hét: " Sao trò không làm bài" . Nó cúi đầu làm thinh. Cô lại hét to hơn: " Hả?" . Nó cũng làm thinh. Tụi con ngồi dưới, đứa nào cũng run.
  - Nó là học trò loại " cá biệt" à?
- Không phải đâu ba, học trò tiên tiến đó ba.
- Sao nữa? Nó trả lời cô giáo như thế nào?
-  Nó cứ làm thinh. Tức quá, cô mới quất cây thước xuống bàn cái chát: " Sao trò không làm bài?" Tới lúc đó nó mới nói: " Thưa cô, con không có ba" . Nghe nó nói, hai con mắt của cô con mở tròn như hai cái tô. Cô đứng sững như trời trồng vậy ba!
Tôi bỗng nhập vai là cô giáo. Tôi thấy mình ngã qụy xuống trước đứa học trò không có ba. Sau đó cô và cả lớp mới được biết, em mồ côi cha khi vừa mới lọt lòng mẹ. Ba em hy sinh trên chiến trường biên giới. Từ ấy, má em ở vậy, tần tảo nuôi con... Có người hỏi em: " Sao mày không tả ba của đứa khác" . Em không đáp, cúi đầu, hai giọt nước mắt chảy dài xuống đôi má. Chuyện của đứa học trò bị bài văn 0 điểm đã để lại trong tôi một nỗi đau. Em bị 0 điểm, nhưng với tôi, người viết văn là một bài học, bài học trung thực. Sáng tạo không đồng nghĩa với bịa đặt. Giữa những dòng chữ bịa đặt và trang giấy trắng, tôi xin để trang giấy trắng trung thực trên bàn viết.
ĐHĐ st

Thứ Bảy, 21 tháng 4, 2012

Thứ Tư, 18 tháng 4, 2012

DÒNG SÔNG HẮC ÁM



Trung Kần

Thứ Ba, 17 tháng 4, 2012

ĐÔI BỜ

B. Akugiava ( Thái Bá Tân dịch từ nguyên bản tiếng Nga )

Suốt đêm qua trời mưa
Lên lá xanh, càng mục.
Ai cũng nói rằng em
Được yêu và hạnh phúc.


Cả em, em cũng tin.
Dù trái tim không vậy -
Chúng ta ở đôi bờ
Một dòng sông nào đấy.


Đàn chim bay từng đôi,
Như sóng kề bên sóng.
Các bạn gái có đôi,
Chỉ mình em thất vọng.

Nhưng em chờ, em tin,
Dù trái tim không vậy -
Chúng ta ở đôi bờ
Một dòng sông nào đấy.

Suốt đêm qua trời mưa,
Nhưng bình minh đã tới.
Chỉ mình anh, mình anh,
Mình anh em chờ đợi.

Em chờ và em tin,
Dù trái tim không vậy -
Chúng ta ở đôi bờ
Một dòng sông nào đấy...

ДВА БЕРЕГА

Ночь была с ливнями
И трава в росе,
Про меня "счастливая"
Говорили все.

И сама я верила,
Сердцу вопреки:
Мы с тобой - два берега
У одной реки.

Утки все - парами,
Как с волной волна,
Все подруги с парнями,
Только я одна.

Всё ждала и верила,
Сердцу вопреки:
Мы с тобой - два берега
У одной реки.

Ночь была, был рассвет,
Словно тень крыла.
У меня другого нет,
Я тебя ждала.

Всё ждала и верила,
Сердцу вопреки:
Мы с тобой - два берега
У одной реки...

LỜI BÀI HÁT TIẾNG VIỆT
Đêm dài qua, dưới mưa rơi, em mong chờ anh tới
Cây cỏ hoa như nói nên lời em hạnh phúc nhất đời
Lòng em riêng biết có yêu anh, giữa tình đôi lứa ta,
Một dòng sông sóng nước long lanh, đôi bờ đâu cách xa...

Trên dòng sông, sóng đôi nhau, thiên nga đùa trên sóng
Bên bờ sông vai sánh vai nhau, đôi đôi bước theo dòng
Mình em riêng đứng ngóng trông anh, với tình yêu thiết tha
Một dòng sông sóng nước long lanh, đôi bờ đâu cách xa...

Đêm dần qua ánh ban mai đang lan tràn dâng tới.
Trên bờ sông soi bóng em dài, xa xa phía chân trời.
Mình em riêng thắm thiết yêu anh, với niềm tin thiết tha.
Một dòng sông sóng nước long lanh, đôi bờ đâu cách xa...
*****
Nghe bài hát
Câu kết của nguyên tác "Мы с тобой два берега у одной реки" nghĩa là "Em và anh như hai bờ của một dòng sông ", Phải chăng chẳng bao giờ gặp được nhau ?
Bài thơ được phổ nhạc và bài hát cũng mang tựa đề Đôi bờ ( đã được dịch hát bằng tiếng Việt) . Từ nguyên tác thơ, sang phần dịch rồi tới lời bài hát đều có sự khác biệt đôi chút . Tuy nhiên tình cảm của người thiếu nữ trong’’ Đôi bờ’’ thật tha thiết và cảm động.
Một bài hát hay theo thời gian phải không? Về tác giả bài thơ Vt đã seach trên google thấy nhiều tên khác nhau. Không rõ chính xác là ai?

VT st

Thứ Hai, 16 tháng 4, 2012

HẠNH PHÚC LÀ GÌ?



Đó là câu hỏi mà loài người tìm kiếm câu trả lời tự ngàn kiếp trước cho đến ngàn mai sau. Có người bảo hạnh phúc là trạng thái sung sướng vì cảm thấy hoàn toàn đạt được ý nguyện. Nhưng có khi hạnh phúc và đau khổ lại tương tức, nghĩa là vì có cái này nên mới có cái kia.
6.1.2008. Hoàng hôn buông xuống quân cảng Cam Ranh. Một hồi còi dài vang lên, đoàn tàu chở bộ đội hải quân rời bến đi Trường Sa. Người ra đi lẫn người ở lại vẫy tay lưu luyến. Một năm sau, những người lính biên thuỳ này mới quay trở lại. Khi tàu cách xa cầu cảng vài chục mét, một phụ nữ mắt đỏ hoe bồng con nhỏ tất tả chạy theo. Đến cuối cầu cảng, chị dừng lại, mắt dõi theo đoàn tàu dần xa bờ. Rồi chị thổn thức nói với con gái: “Con chào bố đi…”. Đứa bé giơ bàn tay yếu ớt: “Con chào bố”. Ở trên tàu, người cha không thể nghe tiếng con chào tạm biệt, nhưng tôi chắc rằng anh đang rơi nước mắt, nhìn vợ con ở cuối cầu tàu.
Có người để mà rơi nước mắt vì xa cách nhớ nhung…, chẳng phải là hạnh phúc đó sao?


XHòa- 10H
(xuanhoanews)

Chủ Nhật, 15 tháng 4, 2012

HINH ẢNH ĐẸP " ÔNG MẶT TRỜI"

Đây là cảnh mặt trời lúc xuống núi ở đỉnh Langbiang và 1 khóm hoa mọc tại vùng cỏ hoang- Đà Lạt

Cảnh đẹp Đà Lạt một ngày mưa

Các khu nhà nghị tại Đà Lạt
Mặt trời lặn tại TPHCM, khi mình đi du thuyền trên sông SG
Xuân Hải Chụp "tháng phụ nữ/2012"

Thứ Sáu, 13 tháng 4, 2012

ĐỐ....ĐỐ....

Các bạn đoán xem bức ảnh này chụp lúc bình minh hay hoàng hôn?



Click vào ảnh để phóng to xem rõ hơn.

Ảnh st

Thứ Năm, 12 tháng 4, 2012

TÓM TẮt TIỂU THUYẾT TRINH THÁM TOÀN “TÊ” TÁM TẬP

Tựa

Tiểu thuyết trinh thám toàn "Tê" tám tập tuyên truyền tư tưởng tốt. Ty trật tự tỉnh Thừa Thiên thiết tha tin tưởng toàn thể tỉnh ta tiếp thu tư tưởng tâp truyện.

ôi tìm tòi trong tiểu thuyết toàn “Tê” tám tập thấy thật thích thú. Tối thứ tư tuần trước, thầy thằng Toán tự thuật: ” Thuở thiếu thời, thời thằng Tây trắng, trong trang trại Trần Thắng, tên trộm trẻ Tiến Tường trèo tường thoăn thoắt. Thoang thoảng thấy thịt trâu thui, tên trộm trẻ tấm tắc:” Thơm thật! Thơm thật! Ta thử tiến tới thó tí tẹo”. Thận trọng tiến tới tảng thịt trâu thui, tên trộm thoạt thấy tiểu thư Trần Thị Thu Thắm, tuổi tựa trăng tròn, tiết trời thu tháng tám, trông trăng thêu thùa. Tên trộm trẻ tiến tới tóm tay Thắm tiểu thư toan tán tỉnh. Thắm tiểu thư thét thất thanh. Thấy thế, Trần Tường, trưởng ty thông tin tuyên truyền tỉnh Thừa Thiên tức tốc tiến tới tóm Tiến Tường, tống tên trôm tới tấp. Tên trộm trở tay trái, tống trả tám tống trúng tim, trúng thận, trúng tâm thất trái trưởng ty. Trần Tường trọng thương, thoi thóp thở. Thất thế, tên trộm trẻ Tiến Tường tẩu thoát. Trang trại trưởng Trần Thắng thúc toàn thể trang trại truy tìm tung tích tên trôm, triệu thầy thuốc Trương Thành Thi túc trực, tức thì tiêm thuốc trợ tim trên thăn tay trưởng ty. Trần Tường từ từ tỉnh táo, thê thốt tiếng Tây, Ta, tiếng Tàu, tiếng Triều Tiên, tiếng Tiệp:” Ta thua tên trộm trẻ Tiến Tường. Tài trí ta thật tầm thường! Tức thật! Tức thật!”

Tên trộm trẻ tiếp tục tẩu thoát trước tiếng trống truy tìm “thùng thùng “ tăng thêm thanh thế. Trời thì tối, tình thế thật thê thảm, tên trộm trèo tường toan thoát thân. Tường trơn, tên trộm thụt thùng tiêu. Toàn thân thum thủm thối. Tổ tuần tra trang trại tóm tên trộm, trói tay, tức thời tống tên trộm trình tòa truy tố.

Trước tòa tranh tụng, tên trộm trẻ thật thà thú tội:” Thuở thiếu thời, tôi tiếp thu toàn tư tưởng thối tha tồi tệ. Thủy thủ trên tầu Tiền Tiến thường thỏa thuận thuê tôi tiêu thụ toàn thứ tanh tưởi. Thoạt tiên, tạm thời tuân theo tôn ti trật tự, tôi thoái thác. Thời tình thế thôi thúc, tôi thỏa thuận tàng trữ , tiêu thụ. Thấy trang trại Trần Thắng to, trang trại trưởng Trần Thắng tiêu tiền thừa thãi, tôi thì thiếu tiền tiêu tết Trung thu. Tuần trước, tôi tức tối toan tống tiền trang trại trưởng Trần Thắng. Thật thương thay tình thế tôi trong thứ tư tuần trước. Tôi trần tình thực thế. Tội tôi thật trầm trọng. Thỉnh tòa thể tất, thỉnh tòa thương tôi, tôi thề thực tâm tu tỉnh”

Tòa thấy tên trộm trẻ tự thú thành thật, thương tình tha tù.

Toàn thủ thủ trên tầu Tiền Tiến, tất thẩy thấy thâm thù, thề tra tấn tên trộm thành tật thọt.

Lượm lặt chuyện ngày xưa, có bổ sung, mong anh chị em thể tất thương tình, thêm thắt cho thêm phần "dzui dzẻ" (Có thể toàn chữ cái khác, hay toàn dấu nào đó).

Quang Tẹo

Thứ Tư, 11 tháng 4, 2012

LỜI CẢM ƠN

Thân gửi các bạn Nguyễn Trãi K22,

Bố vợ mình, cụ Lê Quang Ngoạn, nguyên cán bộ Bộ Công an, vừa từ trần ngày 5.4.2012 tại Hà Nội, hưởng thọ 92 tuổi.
Nhận được tin, nhiều bạn bè Nguyễn Trãi K22 đã đến viếng, gửi lời chia buồn.
Thay mặt gia đình, xin chân thành cảm ơn các bạn!

Trần Xuân Hòa
Cựu học sinh 10H

Thứ Hai, 9 tháng 4, 2012

THÔNG BÁO THÁNG 4/2012


Chuẩn bị họp 1


Chuẩn bị họp 2

Trưa ngày 7/4/2012, đại diện các ban liên lạc các lớp của khóa đã gặp mặt . Nội dung : bàn thảo về kế hoạch cho ngày kỷ niệm 40 năm ra trường của học sinh toàn khóa. Buổi gặp có trên 13 bạn( thiếu đại diện Ban liên lạc 10A). Một số việc trong buổi họp :


A. Trao đổi: Hoạt động các lớp nói chung rất vui vẻ và đa dạng. Rất mong các bạn giao lưu và trao đổi nhiều hơn nữa trên Blog của khóa( Đặc biệt là các bạn 10B, có nhiều hoạt động chung mà khóa ít được chia xẻ).
1. Hiện có một số ảnh các cá nhân của khóa trên cần được bổ sung tên (Đại loại như: Học sinh nam 1 lớp 10D, học sinh nữ 2 10C...). Các Blogger đã và đang cố gắng tách ảnh các cá nhân mỗi lớp từ ảnh chung toàn khóa nhưng mất nhiều thời gian và chưa đẹp. Mong các bạn có thể gửi ảnh bổ sung qua Ban liên lạc các lớp.
2. Thông tin về các thầy cô cũng đang thiếu, rất mong các lớp nhanh chóng bổ sung
3. Bạn Trần Tuyết Lan (10C) báo cáo tình hình tiết kiệm quỹ của khóa .



B. Vì cuộc gặp mặt sắp tới cũng sẽ đòi hỏi phải tổ chức của toàn khóa lần thứ hai cho tốt, nên có nhiều vấn đề đã phải thảo luận và cân nhắc:

1. Về thời gian : Thống nhất lựa chọn ngày 7/10. Đây là ngày chủ nhật vào mùa thu gần nhất trước ngày 10-10
2. Về địa điểm: Lựa chọn Tiên Sơn- Suối Ngà. Địa điểm này cách Hà Nội 60 km(Xem thêm)
. Kế hoạch đi trong 1 ngày

3. Các đầu mối liên lạc cho mỗi lớp:
10A: Phùng Xuân Hoa(0904269882)
10B: Phạm Anh Dũng(0978859546)
10C: Đặng Hùng Nghĩa(0982424689)-Trân Tuyết Lan(0983868696)
10D: Lê Trí Liêm(01263186875)
10E: Bích Hằng(0902148588)
10G: Đồng Ngọc Toàn(0912170167)
10H: Hồ Sĩ Bàng(0913546785)



4. Cách thức chuẩn bị: Hạt nhân là các lớp. Công việc sẽ bao gồm:

- Ban liên lạc của lớp truyền đạt nội dung cuộc họp đến từng thành viên
- Chuẩn bị danh sách , kinh phí các thành viên tham gia
- Phương tiện, cách thức đi và về.
Chú ý: Nếu phương tiện đi lại gặp khó khăn trong việc tổ chức, có thể báo cho ban liên lạc của khóa để có thể phối hợp giữa các lớp với nhau

5. Những việc cần làm:
- Thu thập thông tin các lớp: thông tin cá nhân học sinh, thầy cô đã từng giảng dạy, ảnh cá nhân, ảnh các hoạt động của lớp
- Các lớp có thể mời các thầy cô cùng tham gia nếu đảm bảo được an toàn sức khỏe và kinh phí cho thầy cô. Theo nghi quyết ngày gặp mặt tháng 9/2012 thì các lớp có thể đến thăm thầy cô nhân dịp này nếu thầy cô không tham gia được.
- Tổ chức tiền trạm để xác định kinh phí,không gian tổ chức: cuối tháng 7/2012 (kết hợp với bạn NghĩaĐH 10C)
- Thời điểm các Ban liên lạc hoàn tất danh sách các bạn tham gia và nộp kinh phí mỗi lớp: thứ bảy(22/9/2012)

6. Kế hoạch ngày 7/10( đang dự kiến)
- Các lớp toàn khóa hẹn gặp nhau tại Tiên Sơn-Suối Ngà lúc 9h00
- từ 9h00 đến 10h00: gặp gỡ, chuẩn bị
- từ 10h00 đến 11h00: phần Hội
- Từ 11h00 trở về sau: phần Lễ.
- Sau đó, mọi người có thể đi tham quan, vãn cảnh v..v..
Ban Liên lạc của khóa rất mong mọi người trong khóa cùng nhiệt tình tham gia để cho buổi gặp mặt vui vẻ và đáng nhớ.

Ban Liên lạc toàn khóa


Nhất trí 1


Nhất trí 2

Chủ Nhật, 8 tháng 4, 2012

Thứ Sáu, 6 tháng 4, 2012

TIN BUỒN

Ban liên lạc lớp 9I-10H kính báo:
Ông Lê Quang Ngoạn, bố vợ bạn Trần Xuân Hòa (10H), nguyên cán bộ Cục Cảnh sát bảo vệ, Tổng cục Cảnh sát, đã mất, hưởng thọ 92 tuổi.

Tang lễ cử hành từ 9h30 - 11h00 sáng thứ hai (ngày 9/4/2012) ngày tại Nhà Tang Lễ Bộ Quốc phòng (5 Trần Thánh Tông, Hà Nội).


Xin kính báo cùng các bạn.




THĂM THÀNH CỔ QUẢNG TRỊ

Ngày 1/4 vừa qua, mình có dịp về quê Quảng trị. Đúng ngày cơn bão số 1 cắc cớ ập vào SG, do có việc không thể không ra được, mình đáp máy bay ra Huế, nhưng hỡi ôi "Vua Hùng giận dữ gì" mà tất cả các chuyến bay đều hoãn hết. Mình ngồi ở SBay từ 18g với chuyến bay lúc 19g10 vậy mà hết chuyến nọ đến chuyến kia hoãn, cũng may đến 1.30 sáng hôm sau thì mình cũng "cất cánh" được.
Về tới quê cũng 5g sáng, không kịp nhìn mặt ông cậu lần cuối. Sau khi làm các thủ tục xong, 11.30 mình tranh thủ về quê ba (thôn khác) thắp nhang cho Ba và tranh thủ ghé thành cổ QT. Nhiêu lần về quê, nhưng chưa bao giờ mình vô đó, lần này sau khi đọc bài Q.Vinh viết về Bá Dật (10H) mình quyết định vô thăm.
Thành cổ còn đơn sơ lắm, chỉ có 2 nơi để thăm quan đó là đền tưởng niệm và bảo tàng chiến tích. Nếu như tự đi không nghe thuyết minh thì mình không thể cảm nhận được xương máu của bao nhiêu đồng bào, bạn bè mình đổ xuống đó. Nhìn các bức ảnh trưng bày, những chiến sĩ trẻ mới 18 đôi mươi, và 1 số bức ảnh chỉ mới 14, 15 tuổi mà không cầm được nước mắt. Nghĩ cũng ngộ, không biết sao mà mình cứ đi tìm xem có bức ảnh nào mình quen không? vì năm đó khóa của tụi mình vô chiến trường cũng không ít mà.
Nếu có điều kiện các bạn cố gắng đến thăm Quảng trị nhé, nơi đây ngoài Thành cổ ra còn có Nghĩa trang Trường Sơn, nơi quá quá nhiều những ngôi mộ không tên, các anh nằm đó chờ thân nhân đến đưa về, còn thân nhân thì mong mỏi tìm nhưng không biết các anh nằm đâu! Mỗi lần đến đó mình cũng chỉ biết cố gắng thắp cho các mộ phần 1 nén nhang và cầu mong họ sớm gặp lại gia đình của mình.
Xuân Hải 10a

Y tế Việt Nam nên bắt đầu từ định nghĩa

Ths. Bs. Nguyễn Minh Mẫn


Trong các văn bản pháp quy thuộc lĩnh vực y tế của Việt Nam, cho đến nay vẫn chưa có định nghĩa chính thức sức khỏe là gì. Khi nói đến sức khỏe nhiều người, kể cả cán bộ y tế, nghĩ ngay đến việc khám, phát hiện, chẩn đoán và điều trị bệnh. Hoặc xa hơn, đó là dự phòng bệnh tật, nghiên cứu khoa học. Nhưng yếu tố tinh thần và xã hội của sức khỏe thì hình như chưa thực sự được quan tâm đúng mức. Do vậy, các hoạt động và phát triển của y tế Việt Nam, thực sự còn lúng túng, do thiếu một triết lý.
Tổ Chức Y tế Thế Giới (WHO, 1947) định nghĩa “Sức khỏe là sự vẹn toàn về thể chất, tinh thần và xã hội, chứ không chỉ là không có bệnh tật”. Có thể xem định nghĩa này như là triết lý y tế. Chúng ta có thể dùng định nghĩa này để soi rọi lại sự nghiệp chăm sóc sức khỏe nhân dân trong nhiều năm qua. Ngay từ lúc còn trong trường y, sinh viên chủ yếu học về sức khỏe thể chất. Theo đó, chương trình giảng dạy chú tâm vào việc huấn luyện cho các sinh viên y khoa việc truy tìm, xử lý bệnh tật bằng thuốc men, tham gia dự phòng bệnh tật. Hệ quả là khi ra trường và trở thành bác sĩ, kiến thức và nhận thức về tâm lý, và kém kỹ năng trong cách đối nhân xử thế với bệnh nhân, thân nhân, đồng sự, cấp trên, cấp dưới trong môi trường bệnh viện cũng như ở cộng đồng.
Ngoài ra, còn có một nghịch lý về giảng dạy kinh tế. Thật vậy, điều mà bác sĩ quan tâm là kinh tế y tế, cân bằng lợi ích lâm sàng và chi phí điều trị cho bệnh nhân, nhưng họ chỉ được học kinh tế chính trị ! Hiếm khi sinh viên được học về các quy trình vận hành, tổ chức, quản lý bệnh viện. Thay vào đó, họ được học về dược lý chứ không biết về giá thuốc và hầu như “mờ mịt” về luật chăm sóc và bảo vệ sức khỏe người dân, luật dược, pháp lệnh hành nghề y dược tư nhân, luật khám bệnh, chữa bệnh và đặc biệt sinh viên y khoa lâu rồi chưa được học “nghĩa vụ y khoa”!
Tập trung vào sức khỏe thể chất dẫn đến một nền y tế thiếu toàn diện. Nhiều bác sĩ khi ra trường họ chỉ biết đến “bệnh” mà ít chú ý đến “người bệnh”, tập trung trí tuệ để xử lý tốt bệnh tật mà quên đi những giá trị mang tính nhân văn đó là tâm lý và xã hội. Họ tự cho mình là “mẹ”, có toàn quyền ra lệnh, quyết định, la rầy “con bệnh” của mình mà quên rằng, thực sự họ chỉ là những “người bạn” của bệnh nhân. Họ nhận lương bổng, thậm chí trang thiết bị, cả chiếc ghế ngồi của họ đều được đóng góp bằng tiền thuế và các khoản khác của người dân, trong đó, có những người bệnh đang ở trước mặt của họ. Khi ra toa thuốc, họ không biết được giá của ngày công lao động tay chân là bao nhiêu, không biết được giá của một kilogram lúa gạo là bao nhiêu, nên “vung tay quá trán”.
Bs Đỗ Hồng Ngọc từng nói các bác sĩ chữa được cái “đau” mà không giải quyết được cái “khổ”, giải quyết được “bệnh” mà không giải quyết được “hoạn”. Nhưng chữa được cho cái “xác” mà lờ đi cái “hồn” và các “mối quan hệ xã hội”, vốn dĩ không ít là cội nguồn của bệnh tật, là một khiếm khuyết. Nếu một bệnh nhân bị stress, đến bác sĩ đo huyết áp thấy cao, được chẩn đoán bệnh tăng huyết áp, dặn dò ăn uống và được “đe nẹt” một số biến chứng, ra toa thuốc, ra về. Nhiều bác sĩ ít khi biết được bệnh nhân ấy đang bị stress, vừa làm ăn thua lỗ, ly dị, đang chia của, con cái bỏ học, nói chung là có nhiều yếu tố xã hội và tâm lý khác. Có thể nhiều bác sĩ cho là bệnh quá tải, không có thời gian nhiều với bệnh nhân (cũng đúng), nhưng cho dù có nhiều thời gian đi nữa thì thực sự rất ít bác sĩ quan tâm đến những chuyện “ngoài bệnh tật” kể trên (trừ các bác sĩ có kinh nghiệm sống, hoặc đã được huấn luyện “lâu lắm rồi”) vì họ thiếu được rèn luyện những kỹ năng và phương pháp chuẩn mực để tiếp cận các vấn đề tâm lý và xã hội.
Các vấn đề vĩ mô khác về y tế theo tôi cũng xuất phát từ sự xa rời định nghĩa sức khỏe. Chúng ta quen đánh giá nền y tế bằng những chỉ số như tỷ trọng thầy thuốc trên vạn dân, số giường bệnh trên vạn dân, và dựa vào đó, các quan chức y tế kết luận rằng chúng ta thiếu bác sĩ, thiếu giường bệnh, bệnh viện quá tải. Những kết luận đó không hẳn sai, nhưng trong thực tế thì không bao giờ cho đủ số lượng bác sĩ theo nhu cầu, chứ chưa kể chất lượng bác sĩ, lại còn phải hòa nhập với khu vực, quốc tế. Nhưng chúng ta ít quan tâm đến cái gốc xã hội của tình trạng quá tải, của thiếu giường bệnh.
Cái gốc đó là chúng ta quên đi hai yếu tố tinh thần và xã hội của sức khỏe. Quay lại ví dụ về bệnh nhân stress, có thể được giảm nhẹ hoặc “chữa khỏi” nhờ chuyên gia tư vấn, thầy tu, hay một ai đó có uy tín trong họ hàng, bè bạn, trong gia đình hòa giải, tránh cuộc ly dị; con cái bỏ học có thể nhờ giáo viên giúp đỡ, và stress được kiểm soát, huyết áp của bệnh nhân cũng ổn theo, biến chứng có thể không xảy ra, thì đâu cần phải có nhiều bác sĩ điều trị tăng huyết áp, đội ngũ điều trị, chăm sóc biến chứng của tăng huyết áp như tai biến mạch não, nhồi máu cơ tim, suy thận mãn. Có lẽ chúng ta chưa quan tâm đúng mức hai yếu tố tâm lý và xã hội của sức khỏe nên quên đi việc chăm sóc sức khỏe là trách nhiệm của mỗi người dân (tự chăm lo cho mình), của toàn xã hội (trong chăm sóc sức khỏe toàn diện) chứ không chỉ của riêng ngành y tế.
Do thiếu cái nhìn toàn diện nên chúng ta đã không huy động triệt để được tất các nguồn lực của xã hội để phục vụ cho sự nghiệp chăm sóc sức khỏe của người dân. Chúng ta cũng đã kêu gọi “xã hội hóa y tế”, nhưng không kêu gọi “xã hội hóa sức khỏe”, chúng ta đã quen gọi “Bộ Y tế” mà thực sự phải là “Bộ Sức khỏe” (Ministry of Health). Danh không chính nên “ngôn không thuận”, khó mà hiệu triệu mọi nguồn lực đi đúng một mục đích và hoạt động có hiệu quả nhất!
Cũng từ nhận thức thiên lệch về sức khỏe thể chất nên việc đầu tư các nguồn lực cho chăm sóc sức khỏe cũng thiếu hiệu quả. Nguồn tài chính của nhà nước đầu tư cho y tế, đa số chỉ tập trung cho việc xây dựng các bệnh viện, trung tâm chẩn đoán và điều trị, trang bị kỹ thuật càng chuyên sâu, cao cấp ở các thành phố lớn, bệnh viện tuyến tỉnh, còn lại một ít cho bệnh viện huyện, cũng nhằm để “chữa cháy” việc quá tải. Tuy nhiên, các địa chỉ trên chỉ chăm lo sức khỏe cho khoảng 10% dân Việt Nam, còn lại khoảng 90% cần được chăm sóc sức khỏe tại cộng đồng thông qua chăm sóc sức khỏe ban đầu (cũng là cách giảm tải bệnh viện bền vững) thì đầu tư còn rất yếu kém. Qua thực tế, các khoa quá tải ở các bệnh viện thường là khoa Nội Tim mạch, Nhi khoa, Chấn thương, Ung thư, Thần kinh. Hơn phân nửa số bệnh nhân nội trú ở Nội tim mạch là tăng huyết áp, gần 1/3 là bệnh mạch vành, có thể kiểm soát tốt ở ngoại trú; đa số bệnh nhi đến phòng khám bệnh viện là các bệnh nhiểm khuẩn, virus đường hô hấp, tiêu hóa, v.v. có thể chữa tại trạm y tế, chăm sóc tại nhà; nếu tuyên truyền tốt về an toàn giao thông, sử dụng rượu bia thì không có nhiều chấn thương do tai nạn giao thông; giảm thuốc lá, thay đổi thói quen ăn uống sinh hoạt, thì ngừa nhiều bệnh ung thư, bệnh chuyển hóa, giảm các bệnh nhập viện vì tai biến mạch não, tiểu đường.
Giải quyết những vấn nạn vừa nêu không nhất thiết phải đầu tư nhiều tiền của mà cần phải chuyển hướng nhận thức đầu tư hiệu quả vào cộng đồng để giải quyết cho 90% nhu cầu xã hội trong chăm sóc sức khỏe ban đầu. Đó là việc đầu tư vào các chương trình truyền thông, giáo dục sức khỏe, sức khỏe học đường, chăm sóc sức khỏe cộng đồng khi không có thầy thuốc. Đó là việc đào tạo rất ngắn hạn nhân viên chăm sóc sức khỏe ban đầu, bao gồm nhiều đối tượng, kể cả thầy tu, sư sãi, ni cô, các sơ, v.v. các tình nguyện viên chăm sóc theo nhu cầu (không nhất thiết họ phải có nhiều kiến thức chuyên môn y tế). Đó là việc kêu gọi các thầy tu dùng chính chùa, nhà thờ làm cơ sở chăm sóc sức khỏe (sau khi được huấn luyện), là việc tăng cường chăm sóc bệnh tại nhà hơn là xây thêm bệnh viện, tăng số giường. Đó là việc kêu gọi gia đình, nhà trường, ngành giáo dục, phối hợp y tế, xã hội tham gia dạy dỗ, hỗ trợ con cái, tăng cường đào tạo kỹ năng sống của học sinh, sinh viên để giảm bớt bạo lực học đường, biết nói không với rượu bia, thuốc lá, lái xe lạng lách và có thể chính các em vận động gia đình mình tham gia giữ gìn sức khỏe, phòng ngừa bệnh tật. Đó là việc dạy cho các bác sĩ ở các trạm y tế khoảng 10 bệnh thường gặp ở tại cộng đồng của mình cho thật tinh tường hơn là dạy cho họ chương trình chuyên khoa cấp I để rồi họ không sử dụng tốt ở cộng đồng, họ “bay” về huyện, tỉnh, gây mất nguồn nhân lực tại chỗ. Đó cũng là việc chúng ta cần tập trung đầu tư hỗ trợ “kiến thức chăm sóc sức khỏe ban đầu” cho tuyến dưới hơn là việc “chuyển giao kỹ thuật” theo chương trình 1816 như hiện nay.
Nói tóm lại, để sự nghiệp chăm sóc sức khỏe thực sự có hiệu quả, bước đầu tiên, cơ bản, quan trọng nhất là phải khẳng định lại một triết lý chăm sóc sức khỏe toàn diện trên cả ba mặt: thể chất, tinh thần lẫn xã hội như định nghĩa sức khỏe của Tổ chức Y tế thế giới. Các nhà hoạch định chính sách vĩ mô lẫn vi mô sẽ dựa trên định nghĩa này triển khai các bước đi tiếp theo sao cho toàn diện, không thiên lệch. Từ việc xác định triết lý này, sẽ có cơ sở tập trung các dạng nguồn lực: nhân lực, vật lực, tài lực, thiên nhiên, xã hội và văn hóa nhằm vào mục đích chăm sóc sức khỏe cho chính mình và xã hội. Nhà nước sẽ giảm bớt gánh nặng trong việc lo cho sức khỏe người dân, góp phần đảm bảo “an sinh xã hội”. Hồ Chủ tịch cũng đã từng dạy: “Dễ trăm lần không dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng xong”. Muốn “dân liệu” hiệu quả phải chỉ ra vai trò người dân một cách rõ ràng, tạo điều kiện để mọi tầng lớp tham gia tích cực, riêng trong định nghĩa sức khỏe, đa số người dân hoàn toàn có thể làm tốt việc chăm lo sức khỏe tinh thần và xã hội, bên cạnh thầy thuốc họ có quyền và có khả năng tự chăm sóc mình và gia đình, cộng đồng trong một chừng mực nhất định nhưng lại hiệu quả rất lớn
.


Đô ĐH st

Thứ Tư, 4 tháng 4, 2012

ĂN QUÀ

Vào cái thời chúng ta còn ‘’mài đũng quần ‘’ học phổ thông ai mà chẳng thích ăn quà . Nhưng đa phần học sinh thời đó còn nghèo , cha mẹ kiếm tiền vất vả chỉ thi thoảng mới cho được vài hào. Nên ăn quà là nhất. Mà được ăn tại trường mới thích .

Học trò thường ngủ dậy muộn, ăn sáng qua quit tại nhà rồi chạy nhanh tới trường, nhiều đứa còn nhịn cả ăn. Cho nên cứ trống điểm giờ giải lao cũng là lúc thấy đói cồn cào, mấy đứa tranh nhau chạy ào ra trước cổng ngắm nghía chọn hàng để ăn quà. Còn nhớ xưa kia trước cổng trường Nguyễn Trãi có mấy bà bán hàng quà . Quanh đi quẩn lại cũng mấy món : Hạt dẻ, ngô rang, ô mai, ốc mút, kẹo kéo, nộm ….



Khi mùa đông đến thì hạt dẻ, ngô, ô mai được chọn đầu tiên. Hạt dẻ hoặc ngô thường được các bà bán rang, ủ nóng trong các thúng có lót bao tải. Chỉ cần 5 xu một hào là có một vốc hạt đựng trong một phễu giấy cuộn. Người bán ngô rang hay cào các hạt ngô nở đong bán cho có lời còn chúng tôi lại thích các hạt ngô ‘’cúp’’vì được nhiều hạt hơn mà ăn cũng bùi hơn. Vì thế phải giám sát bà bán hàng đong sao cho có nửa nọ nửa kia mới chịu. Trời buốt cóng giá lạnh có được một ít hạt dẻ, hạt ngô nóng hổi để trong túi áo bông, thi thoảng tôi mới lấy ra một hạt cắn giòn tan bùi bùi thơm phức . Ăn một hạt lại phải ăn thêm hạt nữa. Cảm giác thật ấm áp tuyệt vời.

Bọn con gái hay ăn ốc mút. Con ốc mút bé tý tẹo vỏ xoắn đít nhọn ăn hơi đắng. Ruột chỉ nhỏ như cái tăm. Bà bán cũng ủ nóng ốc trong cái thúng. Đong bán bằng cái chén con. Đứa nào cũng thủ sẵn một đồng 5 xu tròn có lỗ. Chỉ cần bỏ đít con ốc vào lỗ xu bẻ cái ‘’cóc’’cho gẫy rồi quay miệng ốc để mút chút…chút... Thịt ốc chẳng có bao nhiêu, mút hết mấy xu ốc vẫn còn thòm thèm, chỉ kích thích dạ dày thêm đói. Đẳng cấp và có tiền hơn nữa thì ngồi xổm lể ốc gạo. Những tưởng món đó chỉ dành cho bọn con gái thế nhưng cũng có một vài đứa con trai xề đít ngồi lể ốc. Bọn con gái thường bĩu môi chê mấy đứa đó thuộc loại’’ con trai mà ăn quà như mỏ khoét’’.
Các món kể trên thường được để dành một ít đem vào lớp cất trong cặp, túi áo hay dưới ngăn bàn giấu trộm thầy cô để ăn ăn tiếp tục và cũng để cho mấy đứa bạn xung quanh không có ngửi chết thèm chìa tay xin’’ cho ăn với’’ .

Một món ngon nữa của học trò Hà nội là nộm đu đủ bò khô. Người bán nộm có chiếc xe đẩy con con. Phía trong để sợi đu đủ, dấm tương ớt chua cay và vài miếng bò khô, lọ lạc. Chỉ cần nghe tiếng kéo cách cách của bác bán hàng là đã cảm giác được vị tê cay nơi đầu lưỡi của đĩa nộm trộn bò khô. Lượng đu đủ và bò khô nhiều hay ít tùy theo tiền mà bạn mua, nhưng nước tương ớt thì cho vô tư. Bởi vậy chúng tôi thường tham rưới thật nhiều tương, ăn cay xè, mắt mũi dàn dụa , môi lưỡi rát nóng. Xuýt xoa liên tục.

Tương tự món ăn có tương ớt phải kể tới bánh gối phía trong chợ Ngọc Hà, trên đường từ trường về nhà tôi hay ghé qua. Bánh thời đó không có nhân thịt như bây giờ. Chỉ là chiếc bánh rán vàng nở phồng trong có ít su hào và cà rốt xào. Mua một cái bánh , ông bán hàng lấy kéo rạch bụng bánh , cho tương ớt vào giữa ruột bánh, tôi kẹp chặt bánh rồi vừa đi vừa ăn. Nước tương ớt chảy tòe loe quanh miệng nhưng chẳng thấy xấu hổ là gì. Ngon ơi là ngon.

Không thể liệt kê hết những món quà vặt mà thời học sinh chúng ta đã ăn. Cái sự ăn vặt, ăn thì chẳng được bao nhiêu nhưng không ăn thì thèm ghê ghớm. Giờ đây chúng ta sống đã đầy đủ hơn, các món ăn cũng được chế biến ngon hơn xưa rất nhiều. Nhưng những lúc bạn bè có dịp gặp nhau chúng tôi vẫn nhắc tới món ăn bình dân trước cổng trường gắn liền với những kỷ niệm thời thơ ấu trong khó khăn thiếu thốn .

Vốn dĩ không tự tin trong lĩnh vực văn vẻ nên khi viết xong bài này tôi có đưa bản nháp cho một số đứa bạn xem trước, chúng nó còn kể thêm ‘’một lô xích xông ‘’ các món ăn vặt khác, tôi nghe góp ý mà chẳng thể nhập tâm vì chỉ nghe qua thôi mà đã thèm rỏ rãi . Bạn nào nhớ thì kể tiếp dùm tôi nhé. Chân thành cảm ơn trước đấy.

Nhóm Bloggers 10H

ẢNH ĐI...ẸP

Các bạn có thích ảnh đi...ẹp không. Nếu thích , mời các xem vài bức mà Ca-Lông-Công mới sưu tầm được







( Ca-Lông-Công 10K sưu tầm )

Chủ Nhật, 1 tháng 4, 2012

TẾU TÁO

TẾU TÁO 1:
Ông bố bảo đứa con: Xích con chó dữ lại. Cậu con hỏi: Nhà sắp có khách từ xa tới à bố? Bố đáp: Không! Mẹ mày sắp từ mỹ viện về!

TẾU TÁO 2:
Dịp lễ Giáng Sinh một em bé viết thư cho ông già Noel: Xin Ngài cho con một đứa em. Ông già Noel phúc đáp: Con hãy gởi mẹ con lên đây!


TẾU TÁO 3:

Thầy giáo hỏi cả lớp: Các em đã hiểu việc kinh nguyệt quan trọng thế nào đối với phụ nữ chưa? Trò Mike đáp: Thưa hiểu. Khi chị con nói tháng này không có thấy kinh nguyệt thì mẹ con ngất xỉu, bố con bị đột quỵ tim, còn anh tài xế thì vùng chạy ra ngoài cửa!

RỔ RÁ CẠP LẠI



Hai người học cùng khóanhưng khác lớp. Chàng và nàng đều đã qua ‘’ tập 1’’ . Con cái khôn lớn và họ đã lên chức ông bà .Mấy năm nay họ là những người độc thân vui tính .
Một ngày lớp chàng có một buổi đi chơi xa. Nàng ở lớp khác nhưng cũng được mời đi chơi chung cùng các bạn gái thân. Họ gặp nhau trong lần đi chơi xa đó. Ròng rã 3 năm trời suy nghĩ , và rồi mới đây chàng đã nhắn tin ‘’ chúng mình có nên sang tâp 2 không nhỉ? ‘’.
’’Ok ‘’ nàng reply.
Rổ rá cạp lại nhưng nghe chừng còn chắc và xài vẫn tốt.
Chúc cho họ hạnh phúc tới đầu bạc răng long.

TIN CŨ MÀ CÓ THỂ NHIỀU NGƯỜI CHƯA BIẾT

Theo các công trình nghiên cứu độc lập gần đây của rất nhiều nhà khoa học trên thế giới thì việc lấy ngày 1-4 làm ngày “CÁ THÁNG TƯ” rất thiếu cơ sở khoa học và kèm nhiều bất tiện.


Cũng theo các công trình này thì việc chuyển sang ngày 17-4 hàng năm thì mới là chính xác,khoa học nhất. Chính vì vậy mà Hội liên hiệp các vấn đề văn hóa-xã hội toàn thế giới đã nhất trí công bố : Kể từ năm 2012 trở đi ngày cá tháng tư sẽ là 17-4 thay vì 1-4 như trước đây.


Vậy xin thông báo để các bạn biết ( các bạn đã biết tin này rồi xin vui lòng bỏ qua )


Nguyễn Hà 10D sưu tầm

Ngày Cá Tháng Tư: Kể thật về Nhạc Sỹ Trịnh Công Sơn

Nhạc sỹ Nguyễn Trọng Tạo

Báo Điện tử Tổ Quốc: Sống thật lòng, yêu thật lòng, nhạc cũng thật lòng. Đó là Trịnh Công Sơn. Oái oăm, những người lạ lại thường gặp số phận lạ. Ông mất đúng vào Ngày nói dối (01/04/2001). Độc giả yêu Sơn cho đó là Ngày nói dối huyền thoại dành cho một thiên tài âm nhạc. Hàng năm cứ đến ngày ấy, những người quen biết Sơn lại hay nhắc đến tên của người nghệ sỹ này như một chỉ dấu kỷ niệm. Một bàn trà nhỏ có nhạc sỹ Hồng Đăng – người được biết đến với Hoa sữa, nhạc sỹ Văn Dung với Những bông hoa trong vườn Bác, nhạc sỹ Nguyễn Trọng Tạo với Khúc hát sông quê và nhà thơ Mai Linh, người rất mê nhạc Trịnh cùng trò chuyện về những kỷ niệm thật với Trịnh.


(Từ trái sang phải: Nhạc sỹ Nguyễn Trọng Tạo, nhạc sỹ Văn Dung, nhạc sỹ Hồng Đăng và nhà thơ Mai Linh - Ảnh: Ngọc Thành)

Nhạc sỹ Nguyễn Trọng Tạo: Tôi nhớ có một bài hát mà Trịnh từng hát một lần duy nhất tại Sài Gòn năm 84 cho tôi và Nguyễn Thụy Kha nghe mà giờ không nghe thấy ở đâu nữa, đó là “Dung Hòa ca”. Dung Hòa là cô gái Hà Nội “rất bụi”, có giọng hát khàn khàn lạ lạ, khuôn mặt rất đẹp.
Nhạc sỹ Văn Dung: Sơn thì gặp ai cũng viết được bài hát hết. Sơn từng bảo: “Moa gặp Nguyệt viết Nguyệt ca, gặp Diễm viết Diễm ca, gặp Dung Hòa viết Dung Hòa ca, gặp Oanh hay gặp bất kỳ ai cũng thành bài hát hết”.
Nhạc sỹ Nguyễn Trọng Tạo: Sau này gặp Dung Hoà, Dung Hòa lấy chồng nước ngoài, làm doanh nghiệp, bảo “em cũng chưa nghe bài đó bao giờ”.
Nhạc sỹ Văn Dung: Trịnh Công Sơn và một nhóm anh em du ca như Trần Long Ẩn, Trần Tiến, Hoàng Hiệp đã từng bị cụ Võ Văn Kiệt gọi lên nhắc nhở: “các anh muốn làm gì thì làm, nhưng âm nhạc là chính trị, không thể  chỉ là du ca đâu nhé”.
Trịnh Công Sơn biết chuyện: “Chỉ có bạn bè là vui thôi” rồi cầm đàn hát “Mỗi ngày tôi chọn một niềm vui, chọn những bông hoa chọn những nụ cười, và như thế tôi sống vui từng ngày…”
Nói về chuyện chết của Trịnh Công Sơn, có một chuyện rất đặc biệt. Ngày 2/8/1997, tôi vào Sài Gòn và đến nhà Diệp Minh Tuyền chơi. Lúc đó chỉ có vợ và hai cô con gái ở nhà chuẩn bị dọn nhà, cô con gái bảo “bố cháu đi chuẩn bị làm hậu sự cho chú Sơn rồi”. Nhưng lần đó Sơn không chết, mà đùng một cái đến tháng 11 thì Diệp Minh Tuyền chết. Hóa ra Tuyền ủ bệnh từ lúc nào không hay.


(Nhà thơ Mai Linh hát tại Quán cà phê nhạc Trịnh - Trà quán Dương Tùng tại Đà Lạt)

Nhà thơ Mai Linh: Khi Sơn chết thật, tờ báo đầu tiên đăng bài của tôi về kỷ niệm với Trịnh Công Sơn ở Huế năm 1977 là tờ Thể thao ngày nay do Đỗ Hóa làm. Báo ra lúc 5g sáng ngày 2 tháng 4. Đỗ Hóa đùa bảo: “Trịnh Công Sơn chết rồi mới biết chơi thể thao. Cả đời chỉ biết  cử tạ (nâng ly và đặt ly), nhưng lại được ông Mai Linh cáo phó ở báo Thể thao”. Đỗ Hóa là võ sư nổi tiếng và cũng nổi tiếng về sự hào hiệp. Đỗ Hóa chết sau Trịnh 5 năm vì ung thư xương. Buồn quá. Người tốt lại thường đoản mệnh.
Nhạc sỹ Văn Dung: Mình rất thích chuyện về đám cưới 3 người mà Tạo viết trên báo Gia đình xã hội, nhưng văn học là văn học, báo là báo, ông đừng hư cấu đấy nhé, ta phải sòng phẳng thế.

(Nhạc sỹ Trịnh Công Sơn và nhạc sỹ Nguyễn Trọng Tạo)

Nhạc sỹ Nguyễn Trọng Tạo: Chuyện thật, đó là bài báo cơ mà. Hôm đó, Trịnh Công Sơn nói với Đinh Cường và Trịnh Cung là muốn  làm đám cưới với Thanh Thúy (Tàu).  Thanh Thúy chỉ là ca sỹ nghiệp dư thôi. Thế là ba ông đến quán bar, đợi Thanh Thúy hát xong, Trịnh Công Sơn bẽn lẽn rút ra một món quà cưới. Trời ơi, đó là cái nhẫn bằng mê ca do Đinh Cường và Trịnh Cung sắm cho. Trịnh Công Sơn rất trang trọng đeo vào tay Thanh Thúy. Sơn kể: “Lúc ấy Sơn thấy một giọt nước mắt (thật) rơi xuống lưng bàn tay Sơn nóng bỏng”.
Đưa Sơn và Thanh Thúy về nơi ở của Thúy thì Đinh Cường và Trịnh Cung đi về, đi được một đoạn thì thấy tiếng chân rất hớt hải chạy đằng sau. Hóa ra là Sơn. Sơn bảo: “Sơn thấy lần đầu tiên ở một  mình trong phòng cùng với một người phụ nữ, thấy nó cứ vô lý thế nào ấy”.
Nhạc sỹ Văn Dung: Lại chuyện Sơn và các cô gái. Một lần Sơn ra Hà Nội ở Khách sạn Đồng Lợi, Sơn đến đây bao giờ cũng mướn phòng 202, mà Sơn đến khách sạn nào người ta cũng giành riêng cho phòng 202. Tất cả ngồi uống say be bét, còn mình với Sơn ngồi lại, lúc đó là 1g chiều, bỗng có người điện thoại. Sơn bảo “Em đến đi, phòng 202 nhé” rồi quay ra bảo mình: “Văn Dung, ông cứ giả vờ ngủ say không biết gì nhé. Khi cô gái kia đến, hai người nói chuyện tíu tít,  “anh ra Hà Nội bao lâu mà em không gặp được”, “thôi chết, em quên mất rồi, em để quên chìa khóa dưới xe”. Khi cô ấy xuống thì Sơn khóa cửa trong lại và bảo tôi: “Văn Dung ơi, moa không biết cô bé này là cô bé nào”. Tôi bảo: “nói chuyện một lúc hỏi han thân thiết như thế mà gặp nhau còn phải hỏi”. Sơn bảo: “ai moa cũng quen như thế”. Nhưng một người tài hoa như thế thì nhớ hết các fan hâm mộ làm sao được.
Rồi một lần mình dẫn Sơn đến nhà trung đoàn trưởng trung đoàn phi công.
Chủ nhà mừng rơn khi gặp Sơn và việc đầu tiên là mở rượu. Ba người làm hết cả chai. Trên đường đưa Sơn về, mình và Sơn còn rẽ vào nhà Thái Bá Vân, hôm ấy chỉ có Mì ở nhà, Sơn lại hỏi “ở nhà có chi không”, lại tìm được chai rượu, mình bảo mình mệt rồi, mình đi nằm đây. Sơn ngồi uống một mình đến 12h đêm thì mình tỉnh dậy. Mình bảo Sơn: “mình phải về nhà với vợ con”. Sơn bảo: “Bây giờ Văn Dung về thì đến lượt Moa nằm”. Thế là Sơn hồn nhiên khò một giấc đến sáng.
Chỉ có thằng nghệ sỹ đích thực thì mới thoải mái đến thế.
Sơn bảo: Thái Bá Vân vào Sài Gòn đến  nhà Sơn nhưng thực ra ông ấy có ở đâu. Ông ấy uống rượu, say, ngủ”.
Nhà thơ Mai Linh: Thái Bá Vân đẹp trai lắm, đẹp như tạc. Đó là người làm chữ giỏi, gieo chữ quá siêu đi.
Nhac sỹ Nguyễn Trọng Tạo: Lúc đầu, đoạn đường ven hồ Tây có ngã ba với đường Văn Cao định đặt tên Đỗ Nhuận, nhưng Dương Trung Quốc phát biểu: “Đỗ Nhuận là nhạc sỹ cách mạng, nên để cái đường to. Còn Trịnh Công Sơn thì là một người yêu Hồ Tây, đường tuy nhỏ nhưng lại hợp với cái lãng mạn thơ mộng của nhạc sỹ”. Toàn hội nghị đặt tên đường đều tán thành.
Sau khi Sơn mất 1 năm, tôi có nói với ông bạn làm Chủ tịch Thừa Thiên Huế là Nguyễn Xuân Lý nên đặt tên đường Trịnh Công Sơn ở Huế. Ông Lý nói quy định phải sau khi chết 5 năm mới được đặt tên đường, sau 5 năm tôi hỏi vẫn chưa được đặt tên. Mãi đến đầu năm 2011 mới đặt, một con đường rất đẹp, nằm dọc sông Hương.
Nhà thơ Mai Linh: Hà Nội đặt tên con đường bên Hồ Tây là Trịnh Công Sơn thật khéo. Thế là từ Văn Cao đến Trịnh Công Sơn đúng với cái tên Đài truyền hình Nhật Bản đã làm phim về hai người.


(Nhạc sỹ Trịnh Công Sơn và nhạc sỹ Văn Dung - TP.HCM 18-10-2000)

Nhạc sỹ Văn Dung: Tại sao lại “từ”, Văn Cao nói: “Sơn là 1 người hát thơ, dù tôi rất yêu Sơn nhưng Sơn chỉ là người hát thơ, chuyển tải thơ bằng âm nhạc”. Sơn tự nói: Tôi đến âm nhạc ban đầu là một thầy giáo, tôi chỉ là một người học sư phạm ở Quy Nhơn.
Nguyễn Trọng Tạo:  Văn Cao dùng chữ: “Trịnh Công Sơn là người thơ ca”.
Nếu nhìn TCS bằng ca khúc thì có nhiều kiểu: ca khúc có thể là hát thơ, có thể là một bản nhạc mà bỏ lời đi vẫn tồn tại độc lập như Hạ trắng. Ca khúc TCS có lớp lang, khúc thức rất chuẩn, rất classic, còn hát thơ thường bị thơ dẫn dắt.
Nhạc sỹ Văn Dung: Tất cả những cái đó là khuôn mẫu. Quan họ không phải là phát triển hay cải biên quan họ, một bài hát của Phó Đức Phương hay Nguyễn Trọng Tạo là tôi tạo ra một tác phẩm phát triển trên ngôn ngữ của các cụ chứ không giống các cụ.
Nhạc sỹ Hồng Đăng: Giới nhạc Hà Nội tiếp xúc với TCS vào năm 75, 76. Hồi đó tôi còn ở trong một cái nhà tranh vách đất ở Lý Thường Kiệt thì Trần Tiến dẫn Sơn  đến gặp tôi. Tiến gõ cửa nói: “Anh Đăng ơi, Tiến đây, có ông bạn hay lắm đến gặp anh đây này”
Tôi thấy một người lơ phơ, gầy gầy nói tiếng Huế, chưa biết là ai cả.
Người đó giới thiệu: “Tôi là Trịnh Công Sơn, sáng mới gặp Văn Cao, chiều đến đây gặp anh”.
Bọn tôi ngày đó ít có điều kiện để nghe nhạc Trịnh Công Sơn, nhưng nghe loáng thoáng một số bài thấy ông là một người rất đặc biệt. Viết mà có bút pháp đặc biệt thì rất ít. Khen Sơn thế thì Sơn nói: “Sơn có học hành chi mô”.
Sau đó, chúng tôi đi bộ quay trở lại nhà Văn Cao. Văn Cao thấy tôi thì mừng lắm “ôi giời ơi, ông Đăng ơi, thế thì hôm nay phải làm bữa rượu”.
Buồn cười nhất là trên đường đi bộ đến nhà Văn Cao, Sơn nhìn thấy một tấm biển con con bằng bìa trên viết dòng chữ “Ở đây Quy Gai Xốp”, Sơn hỏi: “ở đây có ông Quy Gai Xốp là ông nào thế, là người Liên Xô à?Lúc biết được nơi sản xuất bánh quy, bánh gai, bánh xốp thì mọi người cười rũ ra.


(Nhạc sỹ Trịnh Công Sơn và nhạc sỹ Hồng Đăng)

Nhà thơ Mai Linh: Cuộc lưu diễn cuối cùng của Trịnh Công Sơn tại Hà Nội là ở Cung Hữu Nghị năm 95,96 gì đó. Trịnh Vĩnh Trinh vừa về nước, lúc đó không có điện thoại, tôi đến đầu tiên nhìn thấy bà Cầm, Phu nhân của Thủ tướng Võ Văn Kiệt ngồi hàng trên cùng với vợ chồng ông Nguyễn Khoa Điềm. Lúc đó ông Điềm là Bộ trưởng Bộ Văn hóa -Thông tin. Anh Sơn bảo “Em lên hàng trên ngồi” nhưng tôi từ chối, ngồi hàng hai. Sơn lúc đó chắc chỉ 39kg, gầy khủng khiếp mà hát gần nửa  chương trình. Lúc kết thúc, mọi người đi ra dần. Tôi để ý thấy bà Cầm nán lại và ủng hộ cho quỹ từ thiện 10 triệu đồng.
Tôi hỏi: sao anh không làm ở Nhà Hát lớn cho sang? Anh Sơn nói “Chỗ ni có 4 mặt tiền. Nhà hát Lớn nó kênh kiệu quá. Còn để Dương Minh Long nó phát hành đĩa.
Người hát hay nhất bài hát của mình là Trịnh Công Sơn. Sau Trịnh Công Sơn là Trần Tiến.
Nhạc sỹ Hồng Đăng: Người quý Trịnh Công Sơn là bà Mão, giám đốc khách sạn Đồng Lợi. Có 1 năm ông Sơn ra, ngồi tán phễu với nhau.
Nhà thơ Mai Linh: Hình như chính ông Thái Bá Vân xui Trịnh Công Sơn vẽ.
Nhạc sỹ Nguyễn Trọng Tạo: Lần đầu tiên gặp Sơn, Tạo phụ trách đoàn văn công xung kích đóng quân tại Lệ Kỳ, Quảng Bình. Tự nhiên gần trưa có anh trực ban vào báo cáo có khách, khách lạ, tóc dài, mặc áo măng tô màu cánh gián, đi xe đạp mini, cười có răng khểnh. Tôi mới đi ra cổng lính,  người khách giới thiệu: “Mình là Sơn, Trịnh Công Sơn”. “Ô, tôi có nghe nhạc anh”. Tôi rất bất ngờ là tại sao Trịnh Công Sơn  đến một mình thì Sơn bảo: “Ở ngoài giếng có mấy anh em văn nghệ sĩ đang rửa chân còn Sơn không rửa”. Các vị Vĩnh Nguyên, Xuân Hoàng, Võ Quê, Lâm Thị Mỹ Dạ… đi xe đò từ Huế ra Quảng Bình, mang theo cả xe đạp, xe đò hỏng đúng ở Quán Hàu, nghĩ đến tôi, liền đạp xe đến chơi. Tôi đón đoàn vào. Tôi hỏi cô quản lý nhà bếp: “có gì ăn không”, “báo cáo thủ trưởng có 5 cân thịt lợn tươi, trong kho còn 1 tạ giò cừu hộp”, “rượu còn không?”, “còn 28 chai rượu chanh HN”, còn thuốc lá thì chính trị viên chạy sang người bạn làm quân nhu lấy về một tút.
Trưa ăn cơm uống rượu xong, Sơn bảo “Thích quá, nhưng cho Sơn ngủ một tí, Sơn mệt quá”.
Chiều tôi bảo “giờ anh Sơn có thích nghe văn công bộ đội hát không”, Sơn bảo “Thích. Sơn chưa được nghe bao giờ”. Tôi tổ chức một hội trường lợp bằng cây rừng, tập hợp bốn chục người lại nghe các nhà thơ đọc thơ. Giới thiệu Trịnh Công Sơn hát, Sơn bảo Sơn mệt, không hát được, cho Sơn ngồi nghe. Sau khi nghe anh em văn công bộ đội diễn mấy tiết mục, Trịnh Công Sơn bỗng hứng lên, bảo “cho Sơn mượn cái đàn ghita Sơn hát một bài với các anh chị”. Và Sơn hát “Rừng núi dang tay nối lại biển xa…”. Đến khi Trịnh Công Sơn đi rồi, anh em cứ hát mãi “nối liền một vòng tử sinh”. Bài hát của Trịnh Công Sơn để lại cho anh em một ấn tượng lạ lùng. Đến giờ thì đã thành bài hát của thanh niên hát trong các hội trại.
Cuộc gặp bất ngờ nhưng cái gì cũng đủ, mà chia tay thì lưu luyến.
Sau 7 năm, gặp lại Trịnh trong ngày sinh nhật Văn Cao 60 tuổi ở Hội Nhạc sỹ. Sơn, Trần Long Ẩn từ Sài Gòn bay ra. Văn Cao đánh đàn bằng nắm đấm và cùi chỏ tay, âm thanh chói tai vô cùng, sau cùng kết thúc bằng một ngón tay trỏ đánh vào nốt đô. Người ta vỗ tay không thể tả được. Văn Cao bảo: “Đánh như thế là vì tay nó bị đau, do bị cái xe húc vào. Hai là vì mình không thể chơi đàn như một nhạc công được vì mình là thằng sáng tác, làm thế mới độc đáo chứ”. Sơn bảo “Sơn chưa bao giờ hình dung Văn Cao là một người ghê gớm thế”, “âm nhạc của anh Văn Cao là núi, âm nhạc của Sơn là đồng bằng”. Tôi bảo: “đi núi mỏi thì cũng phải đi xuống đồng bằng, đó là sự nối tiếp, sự bù trừ”.
Trịnh Công Sơn hiền, nhưng khi cảm xúc thực sự, anh luôn quên cả mình.
Nhà thơ Mai Linh: Sơn tán gái bằng sự im lặng.
Nhạc sỹ Nguyễn Trọng Tạo: Ông Hoàng Phủ Ngọc Tường hay phê phán Trịnh Công Sơn vì rượu, “Bạ ai mời Sơn cũng đi, người ta biến Sơn thành cây cảnh để người ta trang trí, Sơn phải biết phân biệt chỗ nào nên đi, chỗ nào không nên đi”. Sơn cười: “Sơn biết chi mô, người ta mời mình là người ta quý mình thì mình quý lại, biết chi mô”.
Khi làm tập sách “Trịnh Công Sơn – một người thơ ca, một cõi đi về” (cuốn sách do Nguyễn Trọng Tạo, Nguyễn Thụy Kha, Đoàn Tử Huyến làm sau ngày mất TCS), dư luận đánh giá rất cao, có bài báo đã nói “Trịnh Công Sơn là một thiên tài”.
Nhà thơ Mai Linh: Văn Cao rất trọng Trịnh Công Sơn.
Nhạc sỹ Nguyễn Trọng Tạo: Sau triển lãm tranh với Đinh Cường, Trịnh Công Sơn  bảo Trọng Khôi đưa cho một đĩa màu, rồi ngồi vẽ, nhìn ai cũng vẽ, Trịnh Công Sơn vẽ có thể không giống nhưng rất đẹp.
Nhà thơ Mai Linh: Sơn hỏi Mai Linh “anh vẽ có đẹp không”, Mai Linh bảo “anh vẽ giống như em làm nhạc”.
Nhạc sỹ Hồng Đăng: Trịnh Công Sơn có cảm tình với các cô gái Hà Nội. Khánh Ly, Lệ Thu, Vân Anh, Hồng Nhung đều là người Bắc.
Nhạc sỹ Văn Dung: Một lần Sơn nói với mình “có một lần, 2 giờ rưỡi đêm tự nhiên Moa lại thấy nhớ Hồng Nhung, liền đi xích lô một vòng đến nhà Hồng Nhung gõ cửa, thì người ra mở cửa lại là Lê Viện (bố Hồng Nhung), Sơn bảo: “moa không hiểu tại sao đang đêm lại nhớ Viện”.
Nhạc sỹ Nguyễn Trọng Tạo: Một buổi tối, có 4 người: Linh mục Nguyễn Ngọc Lan, Nguyễn Quang Sáng, Đinh Cường, Trịnh Công Sơn, thêm tôi với Nguyễn Thụy Kha là 6 người. Thế mà nhoáng cái đã hết một chai Vodka ngựa đen, Sơn gọi “dì ơi, dì cho tiếp 2 chai nữa nhé”. Bà giúp việc lên xích lô mua thêm hai chai vodka nữa. Uống một hồi lại “dì ơi, 2..”, tổng cộng bốn lần “dì ơi”. Sau đó Sáng về trước. Tôi, Kha, Linh mục Nguyễn Ngọc Lan, Đinh Cường rời nhà Sơn, đi vào một quán ăn trứng chim cút. Chia tay nhau đã 2h sáng thế mà vẫn mò được về nhà Nguyễn Duy. Đến cổng gặp một bóng người lại tưởng là ăn mày, ăn xin. Gọi Duy xuống mở cổng thì thấy người đó đứng bật dậy hỏi “Tạo à”. Hóa ra là lão Trần Mạnh Hảo.
Nhạc sỹ Văn Dung: Trịnh Công Sơn lần nào đi uống xong cũng bảo đi karaoke, nhưng đến quán là ngủ gật.
Nhà thơ Mai Linh: công bằng mà nói bài Phú Quang và Hồng Đăng về Hà Nội nó ẩm ướt hơn, bài của TCS trẻ quá, tươi sáng quá,
Ở Đà Lạt có một thằng cha rất hay. Hắn ta rất yêu Trịnh Công Sơn nhưng chưa bao giờ gặp mặt. Hai vợ chồng hắn tuy rất nghèo nhưng cũng vay mượn bạn bè để mở một cái quán để tụ tập những người yêu Trịnh. Hắn tên là Phương, hát rất hay, chơi các loại nhạc cụ rất giỏi. Quán Dương Tùng của Phương như một hoài niệm rất êm ái về Trịnh. Lần nào vô Đà Lạt tôi cũng đến đấy để nhâm nhi Trịnh cùng với những người mình chưa quen biết bao giờ.
Nhạc sỹ Văn Dung: Sơn không bao giờ nói ra để truyền tải những gì mình hiểu biết, mà dùng âm nhạc để truyền tải. Sơn viết nhạc không phải là những gì anh thấy mà là những gì anh nghĩ.
Cuối tháng chạp năm 1976, tôi đưa anh Sơn đến Hồ Tây, trước đền Quán Thánh, Sơn nói: “Moa đã đọc rất nhiều, nghe rất nhiều về Hồ Tây. Nhưng hôm nay moa đến đây  mới thấy Hồ Tây đẹp hơn tất cả những gì moa nghe, đọc”. Bài Nhớ mùa thu Hà Nội là bài hát viết trong thời điểm mùa đông, viết về anh những gì anh nghĩ, ở đó tất cả Hà Nội hiện lên với những cung bậc trong suy nghĩ của anh Sơn. Nhờ Sơn, chính người Hà Nội mới hiểu về cây cơm nguội vàng, người Hà Nội ăn cốm nhiều nhưng không biết đến cốm sữa. Sơn là thế, ra Hà Nội vào mùa đông nhưng viết Hà Nội về mùa thu. Trịnh Công Sơn biết nhiều nhưng trong cuộc sống ông ít nói. Tất cả những gì ông biết, những khát khao, ước vọng đều được truyền tải qua âm nhạc.
Thế là Trịnh. Đã khuất núi mà vẫn hoàn nguyên kỷ niệm. Những người tài vẫn bên cạnh chúng ta. Giai phẩm của họ vẫn sống mãi.

VND st  (theo nguồn Nguyentrongtao.org)