Vũ Thanh
(PGS. TS. - Phó Trưởng khoa Khoa Ngữ văn,
Trường Đại học Sư Phạm Hà Nội)
25-06-2011
Nhà văn, nhà nghiên cứu phê bình văn
học, nhà giáo ưu tú Văn Tâm (tên khai sinh là Nguyễn Văn Tâm) sinh ngày
5/9/1933 - và qua đời ngày 24/6/2004 là một giảng viên thuộc thế hệ các nhà giáo đầu tiên của Khoa
Ngữ Văn, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội. Cuộc đời ông, đặc biệt là từ khi ông mắc căn bệnh hiểm
nghèo - tai biến mạch máu não, bị liệt nửa người, không tự đi lại được - thực
sự là một cuộc chiến đấu. Chiến đấu để bảo vệ sự trung thực trong khoa học và trong
cuộc đời, chiến đấu để giành giật sự sống, vượt lên hoàn cảnh, để có thể có
được những giây phút được cầm bút làm việc trở lại và để chứng tỏ mình vẫn đang
tồn tại.
Vào tuổi 24, Văn Tâm cho xuất bản công
trình nghiên cứu, phê bình văn học đầu tay xuất sắc Vũ
Trọng Phụng, nhà văn hiện thực (Nxb Kim Đức,
1957). Đối với một người mới tốt nghiệp đại học mà đã có ngay một chuyên khảo
riêng bề thế như vậy cũng là điều hiếm thấy. Chàng trai say mê đọc sách và yêu
thích văn học đó ngay từ những ngày còn là học sinh trung học tỉnh Thanh đi sơ
tán đã hăng hái sáng tác kịch và say sưa tổ chức biểu diễn hết vở Ánh sáng và bóng tối (Nxb Kim Đức, 1952) lại đến Giải tán (Nxb Thời đại mới, 1953). Nhưng từ khi
tốt nghiệp đại học loại Ưu và được giữ lại giảng dạy ở Đại học Sư phạm Hà Nội
thì nhà viết kịch trẻ tuổi lại chuyển hướng sang nghiên cứu phê bình và nhanh
chóng bị cuốn hút vào không khí đấu tranh tư tưởng và học thuật đang diễn ra
sôi nổi lúc bấy giờ trên các giảng đường đại học. Với sự chân thành và hăng hái
của tuổi trẻ, ông đứng ra phê phán những tư tưởng không trung thực trong học
thuật và dám bênh vực những tư tưởng mới mẻ, động chạm đến ngay cả những người
thày của mình. Và sự chân thành đã phải trả giá. Ông buộc phải rời vị trí giảng
viên đại học - một vị trí lý tưởng đối với những người làm khoa học lúc bấy giờ
để chuyển sang công việc khác. Cuốn sách mà ông công phu sưu tầm tư liệu, ấp ủ
bao năm trời với những phát hiện mới mẻ Vũ
Trọng Phụng, nhà văn hiện thực đã
bị phê phán. Nhà phê bình có cá tính mạnh mẽ, cương trực, “uy vũ bất năng
khuất”, một tài năng đã được thể hiện ngay từ tác phẩm đầu tay, tiếc thay, từ
đó cũng bắt đầu một số phận long đong, chìm nổi như văn nghiệp nhà văn họ Vũ mà
ông yêu quý. Phải hơn 30 năm sau, những ý tưởng khoa học của ông trong cuốn
sách này một lần nữa lại được thực tế chứng minh là đúng đắn cùng với việc văn
nghiệp của nhà văn họ Vũ được phục hồi trở lại.
Quyết không chịu lùi bước, năm 1964
Văn Tâm cho ra đời công trình dày dặn thứ hai của mình Tản Đà - khối mâu thuẫn lớn (Nxb Khoa học, 1964) dưới một bút danh
khác: Tầm Dương, nhưng tiếc thay cuốn sách này cũng trở nên lạc điệu khi con
người và văn chương Tản Đà không phải là tâm điểm chú ý của dư luận đương thời.
Văn Tâm chính là người đầu tiên đã nghiên cứu Vũ Trọng Phụng và Tản Đà một cách
toàn diện và công phu nhất. Điều đó đã thể hiện rõ bản lĩnh khoa học của nhà
nghiên cứu khi dám lao mình vào những vấn đề khoa học gai góc, cũng tức là dám
đương đầu với số dư luận đang chiếm ưu thế lúc bấy giờ, đang có những đánh giá
một cách cực đoan, sai lệch đối với hai nhà văn lớn của dân tộc. Với hai tập
chuyên khảo đầu tiên trong lịch sử nghiên cứu Tản Đà và Vũ Trọng Phụng, Văn Tâm
đã có công đối với nền nghiên cứu phê bình văn học non trẻ của nước Việt Nam
dân chủ cộng hòa. Ngày nay, nhiều trang viết của ông, nhiều vấn đề đặt ra từ
hai tập sách này vẫn còn nguyên giá trị, mặc dù ở nhiều phần của cả hai bộ sách
ông cũng không tránh khỏi những hạn chế tất yếu của một thời.
Sau những “tai nạn nghề nghiệp” đó,
Văn Tâm dường như “ở ẩn”. Ông buộc phải chuyển sang dạy văn ở trường phổ thông
trung học. Nhà nghiên cứu trẻ tài hoa sau bao ngày buồn bã đã tìm thấy trong
công việc mới của mình những ích lợi thiết thực hơn cho cuộc đời sau khi rời xa
chốn “đao bút”. Ông cống hiến cả tuổi trẻ của mình cho công việc “trồng người”:
đã có rất nhiều thế hệ học trò, trong đó có nhiều học sinh giỏi văn Hà Nội,
miền Bắc và toàn quốc đã bước vào đời và trở thành những người tài giỏi có ích
cho xã hội từ sự dìu dắt tận tình và từ những bài giảng sâu sắc của ông. Văn
Tâm trở thành người bạn để họ tìm đến tâm tình, kho sách của gia đình ông trở
thành thư viện lớn đối với họ, ở đó có rất nhiều cuốn sách mà họ không thể tìm
thấy ngoài đời. Ông vinh dự được Nhà nước trao tặng danh hiệu: Nhà giáo ưu tú.
Bẵng
đi vài chục năm, cây viết sung sức ấy im hơi, lặng tiếng. Tưởng rằng thời gian
và sự nặng nề của cuộc đời đã bào mòn sức lực ông. Bởi có nhiều người rơi vào
hoàn cảnh tương tự ông đã trở nên mòn cũ, mất thói quen viết, chào thua cuộc
đời. Nhưng thật mừng là Văn Tâm đã "tái xuất" văn đàn với một bút lực
còn sung mãn, mới mẻ, táo bạo và một vốn tri thức được nhân lên gấp nhiều lần.
Chính công cuộc đổi mới của toàn xã
hội đã "cởi trói", đem lại cho những người trí thức tâm huyết với
công việc như ông một vận hội mới. Ông như được hồi sinh bởi khát vọng đổi mới
nền văn học dân tộc, đổi mới cách nhìn nhận và đánh giá các giá trị văn hóa dân
tộc, cũng như mong muốn phục hồi và khám phá trở lại những giá trị văn học đã bị
dập vùi hoặc quên lãng một thời đã trở thành máu thịt, cũng là điều tâm huyết
mà ông đã phải chờ đợi bức xúc bao năm trời. Niềm say mê sáng tạo trở lại với
Văn Tâm. Ông tự tìm lại mình và giúp bạn đọc tìm lại Tản Đà, Vũ Trọng Phụng,
Đoàn Phú Tứ, Phùng Quán, Thơ mới và Xuân
thu nhã tập..., tìm lại và khám phá nhiều nhà văn, nhà thơ khác nữa. Có lẽ, do
có sự đồng cảm sâu sắc, nên Văn Tâm thích tìm đến những tài năng mà số phận
cuộc đời hoặc số phận tác phẩm của họ phải chịu sự long đong, vất vả, tìm đến
những trào lưu văn học chịu thiệt thòi do những quan điểm còn cực đoan, phiến
diện một thời của chúng ta. Qua những hiện tượng văn chương đó, ông đã phát
hiện ra những vấn đề lớn lao của văn học và xã hội Việt Nam, khám phá ra vẻ đẹp của văn
chương và tình người. Ông bênh vực Vũ Trọng Phụng khi nỗi oan ức của nhà văn
lên đến đỉnh điểm, khẳng định tài năng và nhân cách của nhà văn, ông đánh giá
cao giá trị văn chương và tinh thần yêu nước đặc thù của Tản Đà giữa lúc mà
người ta có những quan điểm không công bằng về nhà thơ, ông “làm sống dậy” “từ
trong bóng tối”1 _ một
Đoàn Phú Tứ tài hoa tuyệt vời, ông có một thái độ trân trọng trước sau như một
đối với bộ phận văn học lãng mạn, đặc biệt là Thơ mới, bị coi là tiêu cực, ông
chỉ ra cho mọi người thấy công lao và giá trị đối với sự phát triển văn hóa dân
tộc của nhóm Xuân thu nhã tập xưa nay bị coi là tiêu biểu cho chủ nghĩa hình
thức bí hiểm, ông bênh vực tác giả Vàng
lửa và Kiếm sắc, chứng minh tính cao
cả trong hồn thơ Phùng Quán - một nhà thơ còn chưa được đánh giá đúng mức
vv... Ông xứng đáng với
danh hiệu mà nhà văn Xuân Cang dành riêng gọi ông là “Người rũ bụi đường trường
văn học”2.
Văn Tâm là một trong những người đi
tiên phong góp phần tích cực đổi mới nghiên cứu và phê bình văn học, đổi mới
cách tiếp nhận, cách tân các tiêu chí thẩm mỹ, bổ sung công cụ cho việc nhìn
nhận và đánh giá văn học, cũng như đổi mới cách giảng dạy văn học trong Nhà
trường. Những bài viết của ông vừa mang tính phương pháp luận, vừa có tính
thuyết phục cao bởi những lập luận sắc bén và những tư liệu đáng tin cậy mà ông
chỉ ra cho bạn đọc. Ông là một trong những khuôn mặt không thể thiếu của văn học
thời kỳ đổi mới. Chỉ trong vài năm quay lại văn đàn, ông đã cho ra đời vài cuốn
sách gây ấn tượng trong bạn đọc như Giảng
văn văn học lãng mạn (Nxb
Giáo dục, 1991), Góp lời “thiên cổ sự” (Nxb Văn học,
1992. Tặng thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam, 1993), Đoàn Phú Tứ - con người và tác phẩm (Nxb Văn học, 1995)... Giữa lúc ông
đang hăng hái với những kết quả học thuật đã đạt được, lúc mà tư duy, trí tuệ
của ông dường như đã được giải phóng thì bệnh tật lại cướp đi của ông sức khỏe
cần thiết.
Đọc Văn Tâm từ lâu, nhưng
trước khi ông mất vài năm do công việc tôi mới có dịp được tiếp xúc nhiều với
ông và may mắn được chứng kiến những năm tháng cuối cùng của một cuộc đời lao
động không ngưng nghỉ. Mặc dù bị bạo bệnh, thời kỳ đầu tưởng như không qua nổi,
luôn phải nhờ người chăm sóc, nhưng Văn Tâm không ngừng làm việc bằng cánh tay
yếu ớt còn chưa bị liệt của mình. Một ngày bình thường của ông cũng hết sức bận
rộn. Ông dành nhiều thời gian để đọc sách, nhất là sách Phật học, đặc biệt là
Thiền, một lĩnh vực mà nhà nghiên cứu say mê tìm hiểu từ lâu, nhưng như ông tâm
sự, ông chỉ thực sự thấu hiểu những triết lý cao siêu đó từ khi phải đối diện
trực tiếp với cái chết. Và cũng nhờ có tri thức sâu rộng về mặt này mà Văn Tâm
đã viết được một loạt bài về ảnh hưởng Phật giáo trong văn hóa, văn học Việt
Nam, trong đó nổi bật là việc khám phá ra chiều sâu độc đáo trong hai vở kịch
của Đoàn Phú Tứ: Thiền học trong hai vở kịch nổi tiếng Ngã ba vàThằng cuội ngồi gốc cây đa của nhà viết kịch trứ danh này. Sắc
thái Thiền học ấy, theo Văn Tâm, độc đáo thay, là “đợt sóng tràn bờ” sau bao
năm thu hẹp dòng của dòng chảy văn chương Thiền học Việt Nam khởi nguồn mênh
mang từ thời Lý-Trần. Có được phát hiện này một mặt là do Văn Tâm đã tìm về bối
cảnh ra đời của tác phẩm, xem xét tâm trạng của người viết lúc đó, nhưng điều
cơ bản hơn, là ở đây có sự đồng cảm giữa nhà phê bình và nhà viết kịch. Ở Văn
Tâm, có lẽ một phần do những “tai nạn” mà số phận bắt ông phải gánh chịu, ông
trở nên chuyên tâm tìm hiểu Thiền học và Phật học nói chung, và trên con đường
đi tìm niềm an ủi cho thân phận mình, ông đã tìm thấy sự gần gũi với những niềm
sâu kín của nhà văn họ Đoàn. Mỗi phát hiện của Văn Tâm đều gắn với những trải
nghiệm của cuộc đời ông và nhiều khi đó là những trải nghiệm cay đắng phải đánh
đổi bằng một giá rất đắt... Hàng ngày ông dành thời gian ngồi Thiền, nhờ vợ dìu
đi dạo và lúc nào thấy làm việc được là cầm bút ngay. Mỗi khi có việc đến gặp
ông, tôi đều phải sắp xếp thời gian thật sát sao để khỏi phạm vào những giây
phút hiếm hoi đó. Ông nói với tôi: “Đối với mình lúc này, mỗi giây phút đều hết
sức quý giá”. Văn Tâm viết khá vất vả, như vật lộn với trang giấy. Ông ngồi gò
bó trên ghế, dùng chiếc ba-toong nối dài thêm cánh tay mình để khều những dụng
cụ cần thiết cho việc viết như chiếc bút xóa, thước kẻ, cái kính... Bàn tay
phải run run cầm bút, mỗi khi viết xong một bài, thường là mất một thời gian
khá dài, mái tóc bạc của ông càng trở nên bơ phờ hơn, sự mệt mỏi hiện rõ trên
khuôn mặt. Chữ ông run và khó đọc, vợ ông, bà Cao Thị Xuân Cam, ái nữ của Nhà
nghiên cứu văn học, Hán học, Nhà nghiên cứu lịch sử tư tưởng nổi tiếng GS Cao
Xuân Huy, thường phải tô lại từng chữ, đọc lại cho ông nghe và giúp ông chữa
từng câu trước khi cho đi đánh vi tính. Với ông, bà vừa là thư ký, vừa là hộ
lý, bác sĩ, đạo hữu... và trên hết là một người vợ rất mực thủy chung, hiền
dịu, đảm đang, người bạn đời nâng đỡ cho ông từng giấc ngủ, bước đi. Chính bà
là người đã làm dịu bớt đi trong ông những bi kịch mà cuộc đời và số phận đã
liên tiếp giáng xuống người trí thức tài hoa - người mà dường như triết lý “chữ
tài, chữ mệnh khéo là ghét nhau” vẫn luôn theo đuổi trên mỗi bước đường đời.
Tôi chợt nhận thấy ở trong con người đang phải gồng mình để chiến thắng bệnh
tật ấy tiềm tàng một nghị lực phi thường, một sự đam mê cháy bỏng đối với công
việc, một năng lực không chịu đầu hàng hoàn cảnh. Một lần nữa Văn Tâm lại chiến
thắng số mệnh, nhưng lần này rõ ràng là trong một hoàn cảnh khắc nghiệt hơn rất
nhiều. Ông thuộc vào số những người cầm bút hy hữu trên đất nước ta đã viết văn
trong một hoàn cảnh thật đặc biệt.
Mỗi khi trao đổi công việc
với ông, nghe ông kể lại những lần ông phải bỏ ra rất nhiều công sức, tiền bạc
để tìm kiếm tư liệu liên quan đến một tác giả nào đó, đôi mắt ông lại sáng bừng
lên niềm vui của sự sáng tạo. Trên khuôn mặt bị căn bệnh hiểm nghèo làm cho mất
cân đối của Văn Tâm lại nở nụ cười hóm hỉnh. Niềm vui ấy như được nhân lên gấp
bội mỗi khi bài viết của ông được in ra. Ông thường sử dụng hết tiền nhuận bút
(nếu nhuận bút quá thấp thì ông bỏ thêm tiền túi) để mua sách báo gửi biếu bạn
bè khắp các miền của đất nước. Tôi chợt hiểu ra rằng, bên cạnh sự phóng khoáng,
hào hoa, Văn Tâm còn muốn chứng tỏ cho bạn bè chiến hữu gần xa - những người đã
nghĩ rằng trong hoàn cảnh của ông, có lẽ chỉ tồn tại được đã là khó lắm rồi,
còn nói gì đến viết lách - biết rằng, Văn Tâm vẫn đang tồn tại đây và không chỉ
tồn tại mà còn viết một cách “ngon lành” nữa, vẫn có bài in báo và có sách xuất
bản đều đặn. Ông thường ký bên cạnh lời đề tặng chữ Tâm theo mẫu tự Hán đã được
cách điệu: gồm “Một vầng trăng khuyết ba sao giữa trời”. Trên bầu trời Văn
chương chữ Tâm là cái đích đến như thiên tài Nguyễn Du tác giả Truyện Kiều đã từng viết: “Chữ Tâm kia mới bằng ba
chữ Tài”. Đối với Văn Tâm lúc này viết chính là cách “nối mạng” với thế giới
bạn bè, người thân, học trò, bạn đọc..., là cách hữu hiệu nhất để ông nối dài
cuộc đời trong hoàn cảnh không thể khác được của mình.
Văn Tâm viết thành công ở rất nhiều lĩnh vực như: thơ, văn
xuôi cả cổ lẫn kim, sân khấu (kịch, chèo), hát nói, hội họa, điện ảnh... Những
bài viết của ông về Hề chèo (Hề chèo - một mảnh hồn dân tộc), Hội họa (Tranh
hồn quê Việt Trương Đình Hào), Hát nói (Thể phách và tinh anh hát nói -
ca trù) là những kỳ công mà người viết chắc chắn phải thâm nhập và nhập
thân một cách hết sức sâu vào lĩnh vực mà mình tìm hiểu mới có thể viết được.
Ông luôn đặt đối tượng nghiên cứu vào bề rộng và chiều sâu văn hóa dân tộc và
nhân loại để làm bật ra những chiều kích mới, mà những bài viết như Vũ Trọng Phụng trong “Rừng cười nhiệt đới” và Cảm thức nhân loại trong “Nhật ký trong tù” là những ví dụ điển hình. Ở bài
viết nào sự hiểu biết của ông cũng đến mức thấu đáo, cặn kẽ và mới mẻ. Đó là
những bài viết cô đọng, tài hoa, giàu thông tin và hết sức công phu. Đó cũng là
những bài viết ngồn ngộn tư liệu nhưng lại mang đậm phong thái lịch lãm, đầy
chất nghệ sĩ của người viết, là sự dồn nén tri thức để bật ra thành câu chữ,
làm thay đổi nhận thức và cách cảm của bạn đọc ngay cả ở những vấn đề tưởng như
đã không còn gì để bàn cãi. Với những cuốn sách và những bài viết của mình, Văn
Tâm đã xác định tư cách chuyên gia về Tản Đà, Vũ Trọng Phụng và Đoàn Phú Tứ,
chuyên gia về văn học lãng mạn Việt Nam, đặc biệt là Thơ mới. Ở ông đã hình thành một dạng văn hóa đọc, một
cách cảm văn học kiểu Văn Tâm, chỉ nói những điều mình biết trên nền của một
vốn tri thức sâu sắc, vừa thấm đượm tình người trong từng trang viết, đọc và
viết trên nền của một thứ văn hóa hướng tới và tôn trọng người viết, người đọc,
bảo vệ đến cùng cái đẹp và chân lý. Điều đó thật có ý nghĩa trong thời buổi văn
hóa tranh luận trên sách báo của chúng ta gần đây có những lúc, những người đã
đi quá đà, biến các diễn đàn văn học thành nơi để mạt sát và hạ nhục nhau.
Trong nhiều bài viết của mình, Văn Tâm đả phá kịch liệt lối nghiên cứu văn học
theo kiểu xã hội học dung tục, minh họa, "gác cổng", hiếu hỉ, mà ông
là một trong những nạn nhân trong nhiều năm. Từ lâu ông đã chính thức tuyên
chiến với loại văn chương phê bình, nghiên cứu kiểu này. Trong nhiều bài viết
của ông có thể thấy rõ tính chiến đấu trong từng lập luận. Người bị phê phán
khó có thể bắt bẻ lại được bởi ông có đầy đủ chứng cứ trong tay. Có thể thấy rõ
ở Văn Tâm sự hòa quyện giữa những phẩm chất của nhà khoa học và nhà phê bình.
Nhiều bài trong Vườn
khuya một mình (Nxb Văn hóa
thông tin, 2001), cuốn sách được ông cho ra đời trong những ngày đau yếu, là
những bài viết sâu sắc như: Thiền
học trong hai vở kịch của Đoàn Phú Tứ (1999), Thể phách và tinh anh hát nói - ca
trù, Thể phách thơ Việt Nam -
khát vọng tự do (2000), Hồ Dzếnh - từ trái tim ân hận (2001)... Ông Kawaguchi Kenichi, Giáo
sư Trường Đại học Ngoại ngữ Tokyo, khi giới thiệu bài Thể phách thơ Việt Nam - khát vọng
tự do trên tạp chíTổng hợp
văn hóa nghiên cứu, số 3/1999 xuất bản tại Tokyo, Nhật Bản đã gọi đó là
"một văn phẩm tuyệt tác". Những tháng cuối cùng của cuộc đời mình,
Văn Tâm còn căng sức ra để hoàn thiện một loạt bài viết dài hơi, công phu như “Ông
vua phóng sự đất Bắc” với
thể ký viết về những đóng góp
của Vũ Trọng Phụng cho sự phát triển của thể ký trong văn học Việt Nam hiện
đại, bài Thơ trong gió của
Bằng Việt, trong đó nhà phê bình đề cập đến sự trở lại thành công của Bằng
Việt và dự báo một cuộc cách tân trong thơ ca đang tới gần, bài Khuynh hướng cao cả của hồn thơ
Phùng Quán ca ngợi vẻ đẹp cao
cả đầy nhân cách của con người và thơ ca Phùng Quán...
Tôi bỗng hiểu ra rằng, mọi nỗ lực của
ông từ luyện tập, chạy chữa để thoát khỏi sự tàn phế, ngồi Thiền hàng ngày để
hồi phục sức khỏe, đến việc đọc rất nhiều sách Phật cuối cùng không phải để tồn
tại một cách bình thường mà chính là để giành giật lấy từng phút quý báu cho
khát vọng được viết, được làm việc, được say mê tìm kiếm cái đẹp của văn
chương. Tiếc thay những giây phút ấy trong hoàn cảnh sức khỏe của ông thật hiếm
hoi. Ông đã lao động cho đến những giây phút cuối cùng của cuộc đời mình. Đó là
một cuộc chiến đấu thật sự để vượt lên số phận, một cuộc chiến đấu không cân
sức nhưng vô cùng cao đẹp mà Văn Tâm đã là người chiến thắng.
Ngay sau khi cuốn Vườn khuya một mình ra đời, tôi đã đề nghị Văn Tâm làm một
cuốn Tuyển tập những tác phẩm và bài viết của ông nhưng ông chưa đồng ý, có lẽ
nhà phê bình nghĩ rằng mình vẫn còn sức viết tiếp, nhất định danh mục các bài
viết của ông còn phải dài hơn nữa. Và Văn Tâm lại miệt mài đọc, viết, viết,
đọc... Chỉ đến những ngày cuối cùng ốm triền miên, nghĩ mình không qua nổi, ông
mới đồng ý làm Tuyển tập, nhưng tiếc thay cuốn sách không kịp ra mắt trước khi
ông từ giã cõi đời.
Ngày cuối trước khi ông mất, tôi tới
thăm ông. Văn Tâm nắm chặt bàn tay tôi xúc động ứa nước mắt khi tôi báo cho
biết đã có nơi nhận in sách của ông, ông phải gắng vượt qua đợt này để nhìn
thấy sách của mình. Văn Tâm khẽ gật đầu, trong đôi mắt không còn linh hoạt của
ông, tôi bỗng đọc thấy niềm tha thiết được trở dậy tiếp tục làm việc, được tiếp
tục viết và hưởng niềm vui từ những trang sách của mình. Ông giơ bàn tay yếu ớt
trên cơ thể đã trở nên bất động vẫy vẫy như khích lệ, động viên và vĩnh biệt
tôi. Đêm ấy Hà Nội nóng kinh khủng, căn hộ nhỏ bé của tôi lại mất điện không
thể ngủ nổi, người ta thông báo có vài trạm điện trong thành phố bị nổ do quá
tải và con người chiến đấu
để giành giật từng phút sự sống ấy đã ra đi.
Mỗi lần được chứng kiến sự gắng sức
của Văn Tâm để được sống, được viết, nước mắt tôi lại trào dâng, thương, phục
và tự hào về ông hơn. Sau lúc ông mất tôi luôn nghĩ đến một viễn cảnh để tự an
ủi mình: ở phía sau bầu trời có vầng trăng khuyết và và những ngôi sao lấp lánh
kia, giờ này chắc Văn Tâm đang trò chuyện tâm tình với những nhà văn
thân yêu của ông. Họ: Tản Đà, Vũ Trọng Phụng, Đoàn Phú Tứ, Hồ Dzếnh, Phùng
Quán... mỗi người một kiểu, đang hồ hởi chào đón nhà phê bình dũng cảm và nhân
ái của mình, người “giũ bụi đường trường” cho họ, người đã dành những giây phút
cuối cùng của cuộc đời mình để bảo vệ họ, để chứng minh cho mọi người thấy được
sự cao cả, đẹp đẽ và chân thành trong nhân cách, cũng như trong những áng văn
chương bất hủ của họ. Ở nơi đó, chắc rằng nụ cười hóm hỉnh của ông sẽ bừng sáng
trên khuôn mặt không còn dấu vết của bệnh tật, của những ưu phiền trắc trở mà
cuộc đời đã bắt ông phải gánh chịu.
Đỗ Quyên sưu tầm
1 Chữ dùng của Đỗ Đức Hiểu khi viết về Văn Tâm với cuốn
Đoàn Phú Tứ - con người và tác phẩm trong
Đổi mới đọc và bình văn, Nxb Hội Nhà văn,1999, tr. 137.
2 Xuân Cang.
Tám
chữ hà lạc và quỹ đạo đời người, Nxb Văn hoá thông tin, 2000, tr. 543.