Bông hồng cài áo
Dù là ngày lễ đặc
trưng của người Á Đông. Nhưng ở nước ta
có một phong tục rất cao thượng vào lễ Vu Lan mà không ở đâu có được. Người
Việt quy ước, vào ngày rằm tháng bảy, ai còn mẹ thì sẽ cài một bông hồng lên
áo, ai đã mất mẹ thì cài hoa hồng trắng.
Người cài hoa sẽ
thấy như một sự nhắc nhở, sẻ chia, không bao giờ quên công ơn cha mẹ. Ý tưởng
này được hòa thượng Thích Nhất Hạnh đề xuất những năm 1960 thực sự trở thành
một nét đẹp nhân văn cao cả, đầy ý nghĩa.
(Vào trang này nghe thử Bông hồng cài áo của Thích Nhất Hạnh cũng như bài hát của Phạm Thế Mỹ do Khánh Ly hát nhé!)
Rằm Tháng 7- ngày lễ của người Việt được giới tăng ni Phật tử gọi là ngày
Đại Lễ Vu Lan, dịp đặc biệt để con cái báo hiếu các bậc sinh thành, tổ tiên đã
khuất. Theo tín ngưỡng dân gian, rằm tháng Bảy cũng là ngày xá tội vong nhân,
các nhà bày mâm cỗ cúng chúng sinh....
1. Theo sự tích xưa, Bồ
tát Mục Kiền Liên đại hiếu đã cứu mẹ của mình ra khỏi kiếp ngạ quỷ. Vu Lan là
ngày lễ hằng năm để tưởng nhớ công ơn cha mẹ (và tổ tiên nói chung) - cha mẹ
của kiếp này và của các kiếp trước.
Sau khi đã chứng quả A La Hán, ông tưởng nhớ và muốn biết
bây giờ mẹ như thế nào nên dùng huệ nhãn tìm. Thấy mẹ vì gây nhiều nghiệp ác
nên rơi vào ngục A Tỳ làm quỷ, bị đói khát hành hạ khổ sở, ông đã đem cơm xuống
tận cõi quỷ để dâng mẹ. Tuy nhiên do đói ăn lâu ngày nên mẹ của ông khi ăn đã
dùng một tay che bát cơm của mình đi tranh không cho các cô hồn khác đến tranh
cướp, vì vậy khi thức ăn đưa lên miệng thức ăn đã hóa thành lửa đỏ.Quá thương
cảm, xót xa Mục Liên quay về tìm Phật để hỏi cách cứu mẹ, Phật dạy rằng:
"dù ông thần thông quảng đại đến đâu cũng không đủ sức cứu mẹ ông đâu. Chỉ
có một cách nhờ hợp lực của chư tăng khắp mười phương mới mong giải cứu được.
Ngày rằm tháng bảy là ngày thích hợp Ðúng vào ngày rằm tháng 7 thì lập trai đàn
để cầu nguyện, thiết trai diên để mời chư tăng thọ thực. Trước khi thọ thực,
các vị này sẽ tuân theo lời dạy của Ðức Phật mà chú tâm cầu nguyện cho cha mẹ
và ông bà bảy đời của thí chủ được siêu thoát".
Mục Liên làm đúng như lời Phật dạy. Quả nhiên vong mẫu của
ông được thoát khỏi kiếp ngạ quỷ mà sanh về cảnh giới lành. Cách thức cúng
dường để cầu siêu đó gọi là Vu Lan bồn pháp, lễ cúng đó gọi là Vu Lan bồn hội,
còn bộ kinh ghi chép sự tích trên đây thì gọi là Vu Lan bồn kinh.
Và thế là mỗi năm khi ngày này đến gần, những người phụ nữ
trong gia đình lại bận rộn hơn với công việc chuẩn bị cúng rằm nhớ ơn tổ tiên,
lên chùa khấn cầu Phật phù hộ cho gia đình, cha mẹ được bình an phúc đức, tất
bật chuẩn bị những mâm lễ cúng chúng sinh. (VNN).
2. Theo Phật Quang Đại từ điển, mục từ: Vu Lan Bồn.
Phạm: Ullalambana. Cũng gọi: Ô lam bà noa.
Chữ Hán dịch là Đảo huyền. Cũng gọi là Vu lan bồn hội, Bồn hội. Chỉ cho nghi
thức cầu siêu độ cho tổ tiên, ông bà, cha mẹ, thân thuộc nhiều đời, được cử
hành vào ngày Rằm tháng 7 âm lịch hàng năm căn cứ theo lời Phật dạy trong kinh
Vu lan bồn tạo các khu vực theo Phật giáo thuộc hệ thống Hán ngữ.
Vu lan bồn là dịch âm từ chữ Phạm Avalambana (Đảo huyền =
treo ngược), ví như nỗi khổ của người chết giống như cái khổ của người bị treo
ngược, cực kỳ đau đớn. (...)
Theo Kinh Vu Lan bồn, đệ tử Phật là ngài Mục Liên dùng thiên
nhãn trông thấy thân mẫu bị đọa vào đường quỷ đói, gầy ốm chỉ còn da bọc xương,
ngày đêm khổ não liên tục, thấy rồi, ngài Mục liên dùng bát đựng cơm đưa đến
dâng cho mẹ, nhưng do chịu quả báo của nghiệp ác nên cơm biến thành lửa. Để cứu
mẹ thoát khỏi nghiệp khổ này, ngài Mục liên bèn xin đức Phật chỉ dạy cách giải
cứu, Phật liền dạy ngài Mục liên vào ngày rằm tháng 7 là ngày chư tăng tự tứ
(kết thúc hạ an cư) , dùng thức ăn uông đựng trong bồn Vu Lan cúng dường Tam
bảo sẽ được vô lượng công đức, cứu được cha mẹ 7 đời. ..
Còn theo Kinh Đại bồn tịnh độ thì vua Bình sa, cư sĩ Tu đạt,
phu nhân Mạt lợi ...y theo phương pháp của ngài Mục liên là 500 bồn vàng đựng
thức ăn dâng cứng đức Phật và chúng tăng để cầu diệt trừ tội nghiệp của cha mẹ
7 đời.
Tại Trung Quốc, theo truyền thuyết, vua Vũ đế nhà Lương là
người đầu tiên cử hành hội Vu Lan bồn. (Trích: Phật Quang Đại từ điển, tập 6 do
Hòa thượng Thích Quảng Độ dịch. Hội Văn hóa Giáo dục Linh Sơn Đài Bắc xuất bản,
trang 7241- 7242).
3. Theo Từ điển Văn hóa cổ truyền Việt Nam, mục từ Vu Lan
(lễ)(Phật giáo).
Vu Lan (bồn) là cái chậu đựng hoa quả, phẩm vật dâng cúng.
Lễ Vu Lan cử hành vào rằm tháng Bảy âm lịch hàng năm, là lễ dâng các phẩm vật
cúng chư tăng đựng trong chiếc Vu Lan cầu xin cho vong hồn người thân thoát
khỏi nơi địa ngục. Rằm tháng 7 âm lịch gọi là ngàu vong nhân xá tooijm nghĩa là
dưới âm phủ, ngày hôm ấy các vong hồn được tha tội. Bởi vậy đốt vàng mã cúng
gia tiên.
(Trích Từ điển Văn hóa cổ truyền Việt Nam. Hữu Ngọc chủ
biên. Nxb Thế giới, Hà Nội, 2002, trang 750).
Đọc thêm: Gương hiếu hạnh của Đức Mục Kiền Liên
Hôm nay là ngày Lễ Vu Lan, 15 tháng
bảy âm lịch theo Phật giáo Việt Nam, trích bài "Gương hiếu hạnh Đức Mục
Kiền Liên" của Hòa thượng THÍCH THANH TỪ để mọi người cùng đọc.
Ngày lễ này có ý nghĩa rất lớn vì đây là ngày Tôn giả Mục Kiền Liên cứu mẹ
thoát khỏi khổ hình trong địa ngục. Tại sao Ngài Mục Kiền Liên là vị đệ tử của
Phật, cũng như bao nhiêu vị A la hán khác nhưng chúng ta lại đặt quan trọng?
Bởi vì người Việt Nam lâu nay nặng về chữ Hiếu, tổ tiên ông bà cha mẹ đều lấy
chữ Hiếu làm đầu. Gương của ngài Mục Kiền Liên là một gương sáng nói lên lòng
hiếu thảo của người con đối với cha mẹ, nên rất thích hợp với Phật giáo Việt
Nam.
Cho nên Phật giáo nước ta xem ngày Lễ Vu lan rất quan trọng, để nhắc nhở tất cả
Phật tử đều ý thức ngày lễ này là một hình ảnh đẹp, là một tấm gương sáng ngời,
chúng ta phải hằng nhớ hằng biết, chớ không thể lơ là được. Người Việt Nam mình
tôn trọng chữ Hiếu làm đầu, điều này có sai lệch không? Chắc là không. Bởi vì
ai cũng thấy rõ, chúng ta nhờ thừa hưởng sự trao truyền từ cha mẹ mà mình có
hình hài, có thân thể này. Sự trao truyền đó là huyết thống, chớ không phải
chuyện ở bên ngoài. Cho nên mọi hay dở tốt xấu của chúng ta là niềm vui buồn
hay đau khổ của cha mẹ. Bổn phận làm con không bao giờ quên ơn cha mẹ, bởi vì
thâm ân đó không thể nào chối cãi, không thể nào từ bỏ được.
Người nào thấy cha mẹ già có vẻ lẩm cẩm một chút mà xem thường cha mẹ là có lỗi
lớn. Dù cha mẹ lẩm cẩm bao nhiêu đi nữa, nhưng chúng ta cũng nhớ rằng bản thân
mình là một phần của thân thể cha mẹ, không thể tách rời, không thể đứng riêng,
dù muốn chối bỏ cũng không chối bỏ được. Thân này đã là của cha mẹ mà mình phụ
rẫy, vong ân thì điều đó thật vô nghĩa, không xứng đáng là một con người. Do đó
lòng hiếu thảo đối với chúng ta là một chân lý. Trên thế gian này không có ân
nào quý trọng và cao cả bằng ân cha mẹ. Nếu ân cao cả như vậy mà chúng ta quên
đi thì những ân thường trong xã hội, ân của bạn bè giúp đỡ, chúng ta làm gì
biết ơn và đền ơn.
Như vậy muốn thành người tốt, có đạo đức, trước tiên phải là người con hiếu
thảo. Người Phật tử không phải tu theo Phật để chỉ cầu giải thoát sanh tử thôi,
mà còn tu trong bổn phận làm người, trong đó cha mẹ là trên hết. Đối với cha mẹ
mà quên thì cầu thành Phật, cầu giải thoát, e rằng chưa được. Vì sao? Vì ngài
Mục Kiền Liên đã chứng A la hán rồi mà còn chưa quên công ơn của mẹ, huống nữa
chúng ta là phàm Tăng phàm Ni, lại không nhớ không kể gì đến ân cha mẹ, đó là
một điều thiếu sót không thể chấp nhận được.
Vì vậy ngày Lễ Vu lan vừa là lễ Phật, lễ Bồ tát, lễ A la hán tức ngài Mục Kiền
Liên, mà cũng là một ngày gợi nhắc lại cho chúng ta tinh thần cao đẹp của tổ
tiên mình. Chúng ta phải nhớ ngày Lễ Vu lan có ý nghĩa trọng đại như thế, chớ
không phải tới ngày này chỉ cầu nguyện cho ông bà siêu sanh Tịnh độ thôi, mà
chúng ta luôn nghĩ tới bổn phận làm con đối với cha mẹ. Nghĩ đến tình thương
cha mẹ đối với chúng ta như thế nào để cố gắng tu hành, cố gắng đền trả công ơn
lớn lao của cha mẹ. Như vậy mới xứng đáng là người con Phật, cũng xứng đáng là
người Phật tử Việt Nam.
Nhiều người đặt câu hỏi, tại sao ngài Mục Kiền Liên đã tu chứng lục thông, có
thể đến được chỗ của mẹ ở trong cõi ngạ quỷ đói khát, mà không dùng thần thông
cõng mẹ chạy lên cõi Trời cho sung sướng? Tại sao thấy cảnh mẹ khổ rồi khóc trở
về, không làm gì được? Đó là một vấn đề cần phải hiểu rõ. Trong nhà Phật có câu
“Thần thông bất năng địch nghiệp”, nghĩa là thần thông không thể diệt được định
nghiệp. Nghiệp đã nhất định rồi, dù có thần thông cũng không đổi dời được.
Như trường hợp Đức Phật khi đã đắc quả rồi, dòng họ Thích bị vua Lưu Ly cử binh
sang đánh. Đức Phật nhiều lần khuyên ngăn nhưng không được, cuối cùng Phật cũng
đành chịu để vua Lưu Ly chém giết dòng họ Thích Ca. Như vậy để thấy khi định
nghiệp có rồi thì khó cải đổi được. Đức Phật không cứu được dòng họ cũng như
ngài Mục Kiền Liên không cứu được mẹ, dù là có thần thông. Qua câu chuyện trên,
chúng ta thấy rõ thần thông không chuyển được định nghiệp của người khác.
Trong nhà thiền thì xem thường thần thông lắm. Như tổ Hoàng Bá ở Trung Hoa,
ngài lên núi Thiên Thai vào mùa mưa, khi xuống núi gặp một vị Tăng, cả hai kết
bạn cùng đi. Đi một đỗi gặp dòng suối lớn, nước chảy mạnh, đằng xa có một con
thuyền. Vị Tăng cùng đi bảo “huynh đi qua đi”, ngài Hoàng Bá nói “huynh qua
được thì cứ qua trước”. Vị Tăng nọ liền vén áo, đi thật nhanh trên mặt nước qua
bờ bên kia. Ngài Hoàng Bá dùng thuyền qua sau. Đến bờ bên kia, người bạn đồng
hành cười ra vẻ xem thường ngài không có thần thông.
Ngài hỏi: - Huynh tập bao lâu mới được thần thông?
Đáp: - Ba mươi năm.
Ngài Hoàng Bá nói: - Công của huynh tập ba mươi năm, giá đáng hai xu thôi.
Vì bỏ ra ba mươi năm để có thần thông đi qua dòng suối, trong khi thiền sư chỉ
cần tốn hai xu qua đò là xong. Nên ngài nói công tập ba mươi năm chỉ đáng giá
hai xu! Như vậy để chúng ta hiểu đạo Phật trọng tu hành chuyển nghiệp hơn là
thần thông. Bởi vì nghiệp mình tạo sẽ chuốc quả khổ, người khác có thần thông
không cứu được. Muốn hết nghiệp phải chuyển từ lúc ban đầu, chớ không phải
luyện tập thần thông mà được.
Nghiệp của bà Thanh Đề, mẹ ngài Mục Kiền Liên là nghiệp gì? Bỏn xẻn là một phần
nhỏ, lớn hơn là lòng hiểm ác. Từ nghiệp hiểm ác bỏn sẻn mà đọa vào kiếp ngạ
quỷ, làm quỷ đói. Đã đọa rồi thì phải chịu quả, dù con mình có thần thông cũng
không cứu được. Cho nên biết thần thông không chuyển được nghiệp, chỉ tu mới
chuyển được thôi. Đó là giải đáp thắc mắc về vấn đề thần thông.
Còn một vấn đề nữa, sau khi ngài Mục Kiền Liên về, trình lên Phật nỗi đau khổ
vì thấy mẹ đói, Ngài đem cơm cho mẹ ăn mà bà ăn không được. Ngài muốn cứu mẹ,
không làm sao cứu được. Phật mới dạy Tôn giả thỉnh chư Tăng cầu nguyện cho mẹ
Ngài chuyển kiếp ngạ quỷ. Sau khi tổ chức Lễ Vu lan rồi, chư Tăng thọ trai
xong, đồng thời nguyện cầu cho bà chuyển được tâm niệm ác độc trở thành tâm
niệm lương thiện. Nương nơi sức cầu nguyện của chư Thánh tăng, bà chuyển được
tâm xấu ác thành tâm thiện lành, liền sanh lên cõi Trời. Nhân đó, người ta đặt
câu hỏi đạo Phật nói nhân quả, tạo nhân nào thì chịu quả nấy, tại sao cầu
nguyện liền mất hết quả cũ. Như vậy lý nhân quả nằm ở chỗ nào? Đó là một vấn
đề.
Quý Phật tử nên biết không phải chư Tăng tụng kinh cầu nguyện, liền đó bà Thanh
Đề được sanh về cõi Trời. Hương linh của người chết đọa vào kiếp ngạ quỷ, họ
sống, họ ăn bằng cái tưởng. Chúng ta cúng cô hồn gồm muối, gạo, cơm cháo…, cúng
rồi còn hay hết, cúng rồi còn nguyên. Như vậy rõ ràng do tâm tưởng, họ ăn được
no. Họ ăn bằng cái tưởng nên họ sống bằng tâm tưởng nhiều hơn sống bằng cái
thực. Vì thể xác của họ không nặng nề như mình, mà nhẹ nhàng như bóng như gió
vậy. Do sống bằng tâm tưởng nên khi chuyển tâm tưởng lại thì liền đó thoát khổ.
Khi chư Tăng nguyện lành cho bà, bà thức tỉnh chuyển tâm hiểm ác keo kiệt trở
thành tâm lương thiện, liền sanh cõi Trời. Như vậy không phải chư Tăng có khả
năng đưa bà lên cõi Trời, mà do bà chuyển được tâm niệm nên sanh về cõi Trời.
Lúc trước bà chết, tâm hiểm ác keo kiệt dẫn bà đi vào cõi Ngạ quỷ. Thế thì quý
Phật tử nhất là những vị lớn tuổi cần phải đề phòng. Chúng ta khi ra đi sẽ theo
tâm tưởng mà thác sanh. Tưởng lành tưởng ác sẽ dẫn mình đi vào đường lành đường
ác. Do đó nhà chùa hay tổ chức lễ cầu nguyện cho người sắp lâm chung, chư Tăng
chư Ni hoặc huynh đệ Phật tử tới hộ niệm để làm gì? Bởi vì khi chúng ta sắp xả
thân, thể xác này đau đớn khổ sở vô kể, vì lo đau đớn nên quên niệm lành. Bây
giờ muốn được niệm lành phải có sự trợ lực của chư Tăng chư Ni hoặc huynh đệ,
cùng đọc lên những lời dạy của Phật tức là đọc kinh, để mình nhớ lại Phật mà
quên những niệm xấu. Nhờ nhớ Phật, quên niệm xấu nên nhắm mắt mình đi đường
lành. Đó là ý nghĩa quan trọng của người trợ niệm.
Chúng ta khi còn khỏe mạnh tỉnh táo nghĩ tới điều lành, nghĩ tới lời Phật dạy
không khó. Nhưng lúc đau đớn khổ sở, thân thể bức ngặt quá, thật là khó nhớ.
Cho nên bây giờ chúng ta ráng tu, ráng gìn giữ tâm tư trong sáng. Những tâm tư
trong sáng đó giúp mình khi bức bách không bị quên, không bị xao lãng, nếu
không tu như vậy tới chừng đó chúng ta không thể chuyển kịp. Nhiều người khi
sống cũng làm đôi ba việc thiện, nhưng khi chết đau khổ quá, ai làm trái ý liền
nổi giận lên. Chính cái giận đó sẽ dẫn họ đi vào đường ác, gọi là cận tử nghiệp,
cái đó hết sức hệ trọng. Quý Phật tử nghĩ đến sự tu thì ráng tập tâm tư của
mình luôn luôn trong sáng. Khi gần nhắm mắt được chư Tăng chư Ni hoặc các Phật
tử giúp cho, mình cố gắng thêm quên cái đau đớn, chỉ nhớ Phật, đó là duyên tốt
để đi đường lành. Người thân cũng nên nhớ đừng gây phiền hà buồn bực làm cho
thần thức kẻ sắp lâm chung đi vào đường khổ.
Bởi vậy tinh thần hiếu thảo của Phật tử là phải quý trọng giờ lâm chung của cha
mẹ, đem hết lòng thành kính thỉnh mời chư Tăng chư Ni tới để trợ lực giúp cho
cha mẹ tỉnh táo, nhớ được điều lành. Đây là việc hết sức thiết yếu. Phật tử nhớ
chúng ta tu là làm sao cho hiện đời được an lạc, khi nhắm mắt đi trên đường
lành. Đó là người biết lo xa, chuẩn bị trước, không phải tu chỉ để được phước.
Được phước mà tâm còn tối tăm, xấu xa thì phước chưa đủ để đưa mình tới chỗ
lành.
Như chúng ta thấy có nhiều con chó sướng hơn con người, phải không? Nó được
cưng được quý, trong khi nhiều con người sống lang thang rất khổ sở. Bây giờ
đặt câu hỏi ngược lại, có phước mới được làm người, vô phước mới làm súc sanh,
tại sao đã làm súc sanh mà sướng hơn người? Đó là một vấn đề chúng ta cần phải
hiểu rõ. Bởi vì người vừa làm phước vừa tạo tội nên sanh có quả không cố định
được. Ví như người đi ăn trộm được tiền nhiều, họ đem cúng chùa một phần, hưởng
một phần. Như vậy một bên làm tội một bên làm phước. Có tội thì phải đọa, nhưng
làm phước thì hưởng phước. Cho nên tuy tội đọa làm súc sanh mà vẫn hưởng được
phước sung sướng. Phật tử tu làm sao để vừa được làm người, vừa có phước nữa,
chớ đừng có phước mà không được làm người, uổng lắm. Hiểu rõ như vậy chúng ta
sẽ không thắc mắc về thân phận và quả phước khác nhau của chúng sanh.
Lễ Vu Lan và lễ Xá tội vong nhân
có phải là một?
Rất nhiều người
trong chúng ta nhầm lẫn điều này và cho rằng, lễ Vu Lan chỉ là tên gọi khác của
ngày Xá tội vong nhân - rằm tháng 7. Trên thực tế đây thực sự là hai lễ khác
nhau, tuy có chung nguồn gốc Phật giáo song xuất phát từ những điển tích riêng
biệt.
Lễ Vu Lan, còn được gọi là lễ “Vu Lan bồn” mang tính chất là ngày
lễ báo hiếu - một trong những lễ vô cùng quan trọng của Phật giáo. Truyền
thuyết kể về sự ra đời của ngày nay liên quan tới bồ tát Mục Kiền Liên. Trong
kinh Vu Lan của đạo Phật, Mục Kiền Liên sau khi đắc đạo tu luyện thành công
nhiều phép thần thông vẫn không nguôi nỗi nhớ mẹ.
Mẫu thân ông là
Thanh Đề đã qua đời, nhưng khi sống gây nhiều ác nghiệp nên bị đày xuống địa
ngục làm ngạ quỷ (quỷ đói). Hiếu tử dùng mắt phép nhìn thấy điều ấy, đã đem cơm
xuống địa ngục cho mẹ.
Nhưng khi ăn, bà
Thanh Đề vì không cho cô hồn khác ăn cùng nên cơm hóa thành lửa đỏ. Mục Kiền
Liên đau xót, nhờ Phật Tổ chỉ cách giúp cứu mẹ. Phật Tổ dạy, chỉ có hợp sức của
chúng tăng vào ngày rằm tháng 7 mới mong cứu được mẹ. Mục Kiền Liên làm theo và
đã giải thoát được bà Thanh Đề.
Trong khi đó, lễ Xá tội vong nhân lại đề cao sự ban
phước cho các cô hồn chưa được siêu thoát còn lảng vảng trên trần gian.
Theo tín ngưỡng dân
gian, ngày 15.7 âm lịch là ngày "mở cửa địa ngục", các cô hồn được xá
tội, thoát về dương thế, vảng vất khắp nhân gian. Vì vậy, mọi người đều cúng
chúng sinh bằng cháo loãng, gạo, bỏng, muối… để siêu sinh cho những linh hồn
không nơi nương tựa ấy.
Tích khác nói rằng,
phật A Nan Đà khi đang ngồi trong tịnh thất thì có một con quỷ miệng lửa (diệm
khẩu) hiện lên báo, ba ngày nữa ông sẽ chết và hóa thành quỷ đói. Cách duy nhất
để sống đó là cúng cho bọn quỷ đói những hộc thức ăn để được tăng thọ. Ngài còn
được Phật truyền cho bài chú "Cứu Bạt Diệm Khẩu Ngạ Quỷ Ðà La Ni",
đem tụng trong lễ cúng để được thêm phước.
Riêng ở nước ta,
người dân thường tổ chức cả hai lễ ấy vào cùng ngày Rằm tháng 7. Chỉ có điều,
người phía Bắc thì trọng ngày Xá tội vong nhân hơn còn miền Trung và miền Nam
thì đề cao lễ Vu Lan báo hiếu.
Cúng rằm tháng bảy - Vu Lan tại nhà
sao cho đúng?
Đến đúng ngày 15/7, mọi việc phải được hoàn tất, đó cũng là lúc "ông
thần tha ma, chủ nhà tha thợ cấy", "mở cửa ngục xá tội vong
nhân".
Trong tâm thức mỗi người dân Việt Nam, cứ đến ngày Rằm tháng
Bảy mọi người khắp nơi lại tưng bừng tổ chức ngày lễ Vu Lan với tâm nguyện nhắc
nhở các thế hệ con cháu nhớ tới công ơn dưỡng dục sinh thành của cha mẹ, ông
bà, tổ tiên.
Trong ngày lễ Vu Lan, mọi người cùng nhau đến chùa để thắp
nhang, khấn nguyện, cầu siêu cho người đã khuất, cầu mong cho gia đình, người
thân được nhiều cơ may, hạnh phúc.
Những ai cài bông hoa màu đỏ, màu hồng là có ý nghĩa thầm
cảm tạ trời đất vì mình vẫn còn được phụng dưỡng cha mẹ. Còn người cài hoa
trắng là những người đã không còn bậc sinh thành...
Cúng rằm tháng bảy hay còn gọi cúng Tết Trung Nguyên, cúng
Vu Lan báo hiếu tại nhà thường có các lễ: cúng Phật, cúng thần linh, cúng gia
tiên, cúng thí thực cô hồn và cúng phóng sinh.
1. Cúng Phật
Vào ngày rằm tháng Bảy, sắp một mâm cơm chay hoặc đơn giản
hơn là mâm ngũ quả để cúng Phật rồi thụ lộc tại nhà. Khi cúng, tốt nhất là đọc
một khoá kinh - Kinh Vu Lan - để hiểu rõ về ngày này, hồi hướng công đức cho
những người thân trong quá khứ được siêu sinh. Kinh Vu Lan khá dài, nhưng không
đến mức quá dài, lại thuộc thể thơ song thất lục bát nên đọc cũng nhanh thôi.
2. Cúng thần linh và gia tiên
Một số người Việt Nam tin rằng Lễ Xá tội vong nhân bắt nguồn
từ công việc đồng áng của người nông dân trước kia. Hằng năm, cứ đến tháng 6-7
âm lịch là vào vụ thu hoạch mùa màng. Để công việc được may mắn, không gặp trắc
trở, người dân thường cầu xin thần linh, thổ địa... bắt giam những yêu ma, oan
hồn lại cho khỏi quấy nhiễu.
Đến đúng ngày 15/7, mọi việc phải được hoàn tất, đó cũng là
lúc "ông thần tha ma, chủ nhà tha thợ cấy", "mở cửa ngục xá tội
vong nhân". Và cũng vào ngày này, người ta thường làm một lễ cúng tạ ơn
các thần linh, và một mâm tưởng nhớ ông bà tổ tiên để cầu nguyện cho các vong
hồn siêu thoát và cầu bình an cho gia đình. Vì vậy nên đa phần các gia đình
thường cúng cơm mặn, nhưng cúng chay tốt hơn.
a. Văn khấn cúng thần linh tại gia rằm tháng 7
Nam mô A Di Đà Phật
Kính lạy: Ngài Kim niên Đương cai Thái tuế Chí đức Tôn thần,
ngài Bản cảnh Thành hoàng chư vị đại vương, ngài Bản xứ Thần linh Thổ địa, ngài
Bản gia Táo quân và chư vị thần linh cai quản xứ này.
Hôm nay là ngày rằm tháng 7 năm ....
Tín chủ chúng con tên là: … ngụ tại nhà số …., đường ….,
phường (xã) …., quận (huyện) …, tỉnh (thành phố) … thành tâm sắm sửa hương hoa,
lễ vật và các thứ cúng dâng, bày lên trước án.
Chúng con thành tâm kính mời: Ngài Kim niên Đương cai Thái
tuế Chí đức Tôn thần, ngài Bản cảnh Thành hoàng chư vị đại vương, ngài Bản xứ
Thần linh Thổ địa, ngài Bản gia Táo quân và tất cả các vị thần linh cai quản
trong khu vực này. Cúi xin các ngài giáng lâm án tọa, soi xét chứng giám.
Nay gặp tiết Vu Lan, ngày vong nhân được xá tội, chúng con
đội ơn Tam bảo, Phật trời phù hộ, thần linh các đấng chở che, công đức lớn lao
nay không biết lấy gì đền đáp.
Do vậy, chúng con kính dâng lễ bạc, bày tỏ lòng thành,
nguyện xin nạp thọ, phù hộ độ trì cho chúng con và cả gia đình chúng con, người
người khỏe mạnh, già trẻ bình an hướng về chính đạo, lộc tài vương tiến, gia
đạo hưng long.
Giãi tấm lòng thành, cúi xin chứng giám.
b. Văn tế khấn Tổ tiên ngày rằm/7
Nam mô A Di Đà Phật
Kính lạy Tổ tiên nội ngoại họ … và chư vị hương linh.
Hôm nay là rằm tháng bảy năm ....
Gặp tiết Vu Lan vào dịp Trung nguyên, nhớ đến Tổ tiên, ông
bà, cha mẹ đã sinh thành ra chúng con, gây dựng cơ nghiệp, xây đắp nền nhân,
khiến nay chúng con được hưởng âm đức. Vì vậy cho nên nghĩ, đức cù lao không
báo, cảm công trời biển khó đền. Chúng con sửa sang lễ vật, hương hoa kim ngân
và các thứ lễ bày dâng trước án linh tọa.
Chúng con thành tâm kính mời: Các cụ Cao tằng Tổ khảo, Cao
tằng Tổ tỷ, Bá thúc đệ huynh, cô dì tỷ muội và tất cả hương hồn trong nội tộc,
ngoại tộc của họ … (Nguyễn, Lê, Trần …)
Cúi xin thương xót con cháu, linh thiêng giáng lâm linh sàng
chứng giám lòng thành, thụ hưởng lễ vật, phù hộ cho con cháu khỏe mạnh, bình
an, lộc tài vượng tiến, gia đạo hưng long, hướng về chính đạo.
Tín chủ lại mời: các vị vong linh y thảo phụ mộc, phảng phất
ở đất này, nhân lễ Vu Lan giáng lâm linh tọa, chiêm ngưỡng tôn thần, hâm hưởng
lễ vật, độ cho tín chủ muôn sự bình an, sở cầu như ý.
Giãi tấm lòng thành, cúi xin chứng giám.
3. Cúng thí thực cô hồn (hay còn gọi cúng chúng sinh – theo
Phật giáo miền Bắc) tại nhà
Ngoài việc cúng Phật, cúng thần linh và cầu siêu cho gia
tiên, người Việt còn có lễ cúng bố thí cho các cô hồn khi tại thế thất cơ lỡ
vận, không nơi nương tựa và chịu nhiều oan trái trong xã hội...
* Thời gian: Có
thể cúng từ ngày mùng 1 đến 15 tháng 7 (âm lịch).
* Sắm lễ:
- Tiền vàng từ 15 lễ trở lên, quần áo chúng sinh từ 20 đến
50 bộ.
- Tiền chúng sinh (tiền trinh), hoa, quả 5 loại 5 mầu (ngũ
sắc).
- Bỏng ngô, khoai lang luộc, ngô luộc, sắn luộc.
- Kẹo bánh. Tiền mặt (tiền thật, các loại mệnh giá).
- Nếu cúng thêm cháo thì thêm mâm gạo muối (5 bát, 5 đôi đũa
hoặc thìa)
Chú ý: Không cúng xôi, gà. Khi rải tiền vàng ra mâm, để 4
hướng Đông, Tây, Nam, Bắc, mỗi hướng từ 3-5-7 cây hương. Bày lễ và cúng ngoài
trời.
* Văn khấn:
Nam mô A Di Đà
Phật!
Nam mô A Di Đà
Phật!
Nam mô A Di Đà
Phật!
Con lạy chín
phương trời, mười phương Chư Phật, Chư Phật mười phương,
Con lạy Đức Phật
Di Đà.
Con lạy Bồ Tát
Quan Âm.
Con lạy Táo Phủ
Thần quân Phúc đức chính thần.
Tiết tháng 7 sắp
thu phân
Ngày rằm xá tội
vong nhân hải hà
Âm cung mở cửa
ngục ra
Vong linh không
cửa không nhà
Đại Thánh Khảo
giáo A Nan Đà Tôn giả
Tiếp chúng sinh
không mả, không mồ bốn phương
Gốc cây xó chợ đầu
đường
Không nơi nương
tựa đêm ngày lang thang
Quanh năm đói rét
cơ hàn
Không manh áo
mỏng, che làn heo may
Cô hồn nam bắc
đông tây
Trẻ già trai gái
về đây họp đoàn
Dù rằng: chết
uổng, chết oan
Chết vì nghiện hút
chết tham làm giàu
Chết tai nạn, chết
ốm đau
Chết đâm chết chém
chết đánh nhau tiền tình
Chết bom đạn, chết
đao binh
Chết vì chó dại,
chết đuối, chết vì sinh sản giống nòi
Chết vì sét đánh
giữa trời
Nay nghe tín chủ
thỉnh mời
Lai lâm nhận hưởng
mọi lời trước sau
Cơm canh cháo nẻ
trầu cau
Tiền vàng quần áo
đủ màu đỏ xanh
Gạo muối quả thực
hoa đăng
Mang theo một chút
để dành ngày mai
Phù hộ tín chủ lộc
tài
An khang thịnh
vượng hoà hài gia trung
Nhớ ngày xá tội
vong nhân
Lại về tín chủ
thành tâm thỉnh mời
Bây giờ nhận hưởng
xong rồi
Dắt nhau già trẻ
về nơi âm phần
Tín chủ thiêu hoá
kim ngân
Cùng với quần áo
đã được phân chia
Kính cáo Tôn thần
Chứng minh công
đức
Cho tín chủ con
Tên
là:....................................
Vợ/Chồng:...............................
Con
trai:.................................
Con
gái:..................................
Ngụ
tại:...................................
Nam mô A Di Đà
Phật!
Nam mô A Di Đà
Phật!
Nam mô A Di Đà
Phật!
4. Cúng phóng sinh
Có thể phóng sinh chim, cá, tôm, cua v.v, tuyệt đối không
phóng sinh rùa tai đỏ vì hủy hoại môi trường. Việc phóng sinh này tùy theo tín
tâm và điều kiện của mỗi gia đình phật tử, không bắt buộc.
Văn khấn cúng phóng sinh
Chúng sanh nay có
bấy nhiêu
lắng tai nghe lấy
những lời dạy răn
các ngươi trước
lòng trần tục lắm
nên đời nay chìm
đắm sông mê
tối tăm chẳng biết
làm lành
gây bao tội ác,
lạc vào trầm luân
do vì đời trước ác
tâm
nên nay chịu quả
khổ đau vô cùng
mang, lông, mai,
vẩy, đội sừng
da trơn, nhám,
láng, các loài súc sanh
do vì ghen ghét,
tham sân
do vì lợi dưỡng
hại người làm vui
do vì gây oán
chuốc thù
do vì hại vật, hại
sanh thoả lòng
do vì chia cách,
giam cầm
do vì đâm thọc
chịu bao khổ hình
cầu xin Phật lực
từ bi
lại nhờ Phật tử mở
lòng xót thương
nay nhờ Tăng chúng
hộ trì
kết duyên Tam bảo
thoát vòng khổ đau
hoặc sanh lên các
cõi trời
hoặc liền thức tỉnh
về nơi cõi lành
hoặc sanh lên được
làm người
biết phân thiện
ác, tránh điều lầm mê…..
Chúng sanh quy y
Phật
Chúng sanh Quy y
Pháp
Chúng sanh Quy y
Tăng….
Úm, ngâm ngâm ngâm
(3 lần)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét