Tạp văn Đỗ Quyên
Hà Nội ơi…
Trên giấy tờ mình không được sinh
ra trùng ngày 10 tháng Mười năm 1954, nhưng lại được thành thai trên sinh lý hoặc
tâm lý có lẽ trúng ngày đó? Vì sau ngày lịch sử ấy đúng 9 tháng 13 ngày, mình đã
chào đời tại Bệnh viện Đồn Thủy (sau gọi là Quân y viện 108) của Hà Nội mà lị. So
với mốc 10 tháng Mười, bố mẹ mình đã mang cả nhà về thủ đô chưa, mình có được
kể; quên rồi. Dù sao mặc lòng: Nếu về trước 10 tháng Mười, chắc trong cái buổi “Năm cửa ô (…) như đài hoa đón mừng, nở năm
cánh đào, chảy dòng sương sớm long lanh”, tức là sau khi đưa các anh chị mình
đi dự lễ “đón mừng đoàn quân tiến về”
thì bố mẹ mình “thừa thắng xông lên” quyết định sinh ra mình. Còn như nhà mình về
thủ đô sau ngày đó, dù ở trên vùng tự do chắc hai cụ vẫn bị âm vang hòa bình lôi
kéo. Giống nhiều gia đình thời đó: nhà mình đông anh chị em và có hai thế hệ
cách xa nhau với mốc Giải phóng Thủ đô. Tóm, tuổi mụ, mình vẫn tự coi được sinh
ra vào 10 tháng Mười năm 1954. Thế hệ Hòa bình.
Hà Nội ơi…
Cha mình sinh ra ở Phú Thọ. Mẹ mình
cũng vậy. Quê nội nhà mình gốc ở Hà Đông. Gọi đúng chữ “về quê”, cho đến nay
mình chỉ được về quê Phú Thọ “nhõn” 3 lần. (Chữ “nhõn” thời mình ở Hà Nội mọi người
ưa dùng!) Lần một, thời chiến tranh được đi sơ tán tránh bom Mỹ, nhưng ít quá, chưa
đầy một năm học mà lại ở huyện khác. Lần hai, được theo mẹ trong chuyến đi trối
già của mẹ về quê ngoại. Lần ba, rất chậm trễ - năm 2010, sau 22 năm xa nước - lần
đầu tiên về được tận làng của quê cha Phú Thọ. Còn đất tổ Hà Đông? Thú thật,
chưa một lần về! Cả hai sự chậm trễ và sự chưa này đều là lỗi rất lớn. Của
chính mình. Dạo bé, mình hay trách người lớn vì sao có 10 cây số từ Bờ Hồ - Hà
Nội vào thị xã Hà Đông phải xa vời đến vậy. Nay thấy mình còn phạm lỗi hơn cả
người lớn. Như cái lần về Việt Nam đó, đã được ông em con ông chú “thiết kế” chỉn
chu một chuyến về quê tổ. Thế rồi tới giờ chót lại hoãn. Mình nghiệm bao lần
rồi, trong các việc quê việc nhà, cứ hoãn cứ trễ là có thể sẽ không bao giờ.
Vậy mà lần đó vẫn bị. Tức mình quá, mà không làm gì được mình.
Có lẽ mình thuộc vào lứa
trẻ-không-quê, nếu không kể Hà Nội là nơi sinh ra, lớn lên và làm việc. Trẻ con
thành phố thời đó vô khối đứa như thế. Nếu không có khách ở quê ra, không đi sơ
tán tàu bay Mỹ - coi như mất quê! Kể từ khi biết làm thơ, mình càng tin (và
tiếc cho bản thân): muốn thành thi sĩ Việt Nam giỏi, phải có đời sống thôn
quê. Kỷ niệm về những phố xá, công sở, nhà cửa (nhất là khu tập thể!) chúng lang
bang lắm. Rất khó tụ thành các giọt thơ. So với những cánh cò, dậu mồng tơi,
ánh trăng lu…
Hà Nội ơi…
“Hà Đông có thuộc về Hà Nội
Hay là không, thì vẫn cứ Hà Đông”.
Phạm Đình Ân
đấy! Anh dường như là người dẫn mình vào làng thơ Hà Thành và sau trở nên bạn thân
thiết. Bài Hà Đông được viết vào năm 1985
khi cả nước ở ngưỡng cửa Đổi mới, từng vang tiếng trong dư luận bạn đọc, được
ngâm ngợi trên đài báo nhiều lần và cho đến tận các năm gần đây (như mình vừa
thấy qua một bài bình trên mạng qdnd.vn
ngày 18 tháng Hai năm 2010). Si tới độ “Nghìn
buổi chiều tôi đến, phải về không”, một bài thơ tình trai gái đúng nghĩa được
xây trên nền sử ký, địa dư, xã hội qua câu chuyện một vùng ngoại vi xoay xỏa
cùng trung tâm, trong công cuộc thủ đô phải tung nở tại bước ngoặt nguy khó không
thể cưỡng nổi - “điện sông Đà hé sáng
giữa gian lao”. Khúc trữ tình riêng tây được mở và khóa bởi tính cận duy lý
trong minh triết Việt. Khóa là hai câu trên. Mở:
“Hà Đông vốn thuộc về Hà Nội
nay thì không mà vẫn cứ Hà Đông.”
Ra đây mỗi khi nhớ quê nhà, lại lấy
thơ bạn ra nhớ. Bạn thế mới là bạn, thơ thế mới là thơ!
Hà Nội ơi…
Minh mù về nhạc. Chỉ dùng nhạc khi thật
cần. Đời còn biết bao thứ cần hơn. Thơ này. Hay như hôm nay viết bài nộp báo chào
mừng 60 năm tái sinh Thủ đô này... Nhạc không là mục đích mà là phương tiện dìu
dặt mình tới thơ và những gì quanh quẩn thơ.
Cụ thể: Những khi công việc dồn dập
(cần vứt gạt trăm thứ để đi làm thơ, hay phải viết bài kịp hẹn tòa soạn, hoặc cấp
tập dọn dẹp bài vở trước khi đi xa…) thì mình lại phải Tiến về Hà Nội cùng Văn Cao. Vừa nghe vừa đọc nháo nhào trăm thứ, để
vứt đi hay cho vào kho. May, hai năm nay có phiên bản của Tạ Quang Thắng, Bảo
Trâm và Sinh viên Tuổi 20. Chứ trước “phang” phiên bản cũ, được việc đấy nhưng
hại sức khỏe. Máu bốc từ ngón chân lên đỉnh đầu. Nay lắng dịu, chan hòa hơn mà
vẫn tiến về Thủ đô ngon ơ! Có nhiều bận nghe các em các cháu chúng nó luyến láy
mà quên cả trang thơ đợi mở trắng tinh.
Còn các lúc cần phải buồn tình, tình
riêng chung hay tình thế sự, dữ dội nhất là những năm đầu xa nước, thì cứ Hướng về Hà Nội theo Hoàng Dương. Nhưng
phải do Tuấn Ngọc hát. Ở đó có một nỗi buồn thảm đang kêu gọi (như loài chim mà
mình chọn làm bút danh). Từ 1994 đến nay, khúc ca tuyệt vời đã được thành đại
trà; có cả tá ca sĩ nam nữ già trẻ tầm thượng thặng trình diễn. Kệ, mình vẫn
chăm chăm Tuấn Ngọc. Thi thoảng nghiêng ngó qua diva Hồng Nhung cho hợp thời. Cổ kim đông tây, để làm thơ không
buồn là không xong. Vậy Hướng về Hà Nội đi,
thế nào thơ cũng tới.
Tất nhiên, người nào cũng hỉ, nộ, ai, lạc, ái, ố, dục,
thất tình lục đục. Ngoài hai cái chính đã nêu, mình có đủ tâm trạng khác khi
làm các việc khác như người thường. Trên màn hình máy tính, mình cẩn thận giăng
một hàng ngang các đường dẫn vào những bản nhạc với hai bản nhạc đó chặn hai
đầu. (Trông giống cái dây thép phơi quần áo giữa sân chung ở các nhà tập thể Hà
Nội thời Bao cấp!)
Nửa năm qua dây nhạc gồm có: Cesaria
Evora bài Sodade, Phạm Duy - Kỷ niệm; Johann Strauss II - Wiener Bonbons op.307; Bùi Đình Thảo, thơ Hoàng Minh Chính - Đi học, Anh Khang & Quang Thắng song ca; Antonín Dvořák - Symphony No. 9; Dương Thụ - Ô cửa sổ mùa đông; Spanish Guitar Music - Vol.3; Paul Anka - My Way;
Ofra Haza - Adama… Đại khái thế. Và mỗi
khi chuyển qua máy khác, sao chụp xong bài vở dang dở, vội gì thì vội mình cũng
lôi theo “đội nhạc công” đứng đầu là “đội trưởng” Hướng về Hà Nội với câu
đầu:
Hà Nội ơi…
Ghế đá trước Đại sứ quán Ba Lan trước đây trên đường Bà
Huyện Thanh Quan, đầu đường Điện Biên Phủ tới phố Lê Hồng Phong. “Bè lũ năm
tên” tụi mình quy ước tối thứ bảy hay chủ nhật hàng tuần, ai tiện thì đáo qua,
ngay cả khi không có hẹn trước. Lệ có từ khi học lớp 10, được giữ gìn cho đến
khi cả bọn lớn tướng, đi làm cả, một đứa có vợ con. Chỗ ghế tựa cây nhỏ, sáng
choang, nhìn ra thảm cỏ rộng thênh. Hiếm khi bị các đôi tình nhân chiếm đoạt. Nhiều
lần, mưa lâm râm mình cũng ra đó. Dù để mình gặp mình... Cũng không ít lần gặp
“T. Phán”. Mình và bạn ấy thích đạp xe chậm, kịp ngửi hơi đất Hà Nội bốc nhè
nhẹ dưới làn mưa bụi, trên đoạn đường Trần Phú. Mẹ mình thấy con dắt xe đội mưa
ngẩng mặt ra ghế đá hẹn với mấy bạn trai, cứ cười tủm tỉm tủm tỉm mỗi khi mình
chào mẹ con đi. Sau ngày mẹ mất, mình vẫn đầu đội mưa bụi Hà Nội thế thôi. Rồi
sau nữa, những buổi một mình đội gió tuyết Đông Âu, Nam Úc, Bắc Mỹ, chẳng nhớ
Hà Nội chẳng thương mẹ sao đành!
Chuyện bạn trai tụ tập tán ngẫu của mình: nhiều, và
bình thường. Như đa số đám bạn khác, phải công nhận là lành; ngoài mình ra, bốn
bạn kia đều là cán bộ, cán sự lớp, cán bộ Đoàn các kiểu. Ấn tượng nhất là bữa
đó “trời đất nổi cơn gió bụi”, một bạn (ắt là “B. Tè”?) nhắc câu đố của tụi bạn
trường Trỗi cũ: Khắp phố xá Hà Nội có bao nhiêu nhà vệ sinh công cộng WC? Đứa nhẩm:
chắc chắn năm; đứa xòe tay đếm: chín. Rồi năm đứa phóng xe đi. Tìm và đếm. Ba bốn
buổi mới hết. Đâu như được 18 cái cả thảy? Mình không nhớ, chỉ nhớ đã ghi lại
ngay. Rất nhớ có hai WC gây hậu quả. WC ở phố Đồng Xuân, khi bình thưởng, cả
bọn cãi ỏm tỏi do chưa nhất trí khái niệm “nhà vệ sinh công cộng” là phải thuận
tiện ngay trên phố xá, hay có thể sâu hun hút trong “siêu thị” chợ Đồng Xuân
thời đó. Còn cái ở ngã tư đầu phố Lê Đại Hành, gần cuối đường Bà Triệu, mé kia
là nhà máy cơ khí Trần Hưng Đạo, thì sau đó đã làm mình hỏng việc khi đang “tìm
hiểu” một cô bạn gái. (Vụ này tức cười vô cùng, khi rảnh mới “tám” được.) Hôm
về thăm, đứng nhìn mãi ngã tư cũ đang là ngã sáu tấp nập trên cái “WC tuổi trẻ”
của mình.
Nói cho ngay, mình thật không nhớ “B. Tè” là khởi xướng
viên hay không. Có lẽ chỉ vì nick của
bạn ấy có chữ “tè”. Nghe nói thời học ở trường Nguyễn Văn Trỗi bên Quế Lâm,
Trung Quốc trong các năm chiến tranh phá hoại miền Bắc, B. hay tè khi ngủ.
Trường tuyền là dân “4C”/”con cháu các cụ”, được nuông chiều lại phải xa nhà
khi còn chưa rành tè ị, thành thử đám con trai rất giỏi đánh nhau. Năm bạn thì bốn
có võ Tàu! Các thiếu sinh quân đó cần tiêu chí Ngoan. “B. Tè” cực ngoan, học
giỏi, có tài lãnh đạo, vui tính… Lắm lúc, nhớ các bạn học phổ thông, lại ngẫm
cũng có khi mình không nhớ thật! Giai thoại đi tìm và đếm WC có thể xảy ra hồi
mình học lớp 8, lớp 9 ở trường khác? Mà cũng có thể xảy ra trong mơ? Đại khái
thế…
Dạo mới ra ngoài
này, có bữa bỗng dưng nhớ các bạn học cũ quá. Mình viết thành thơ:
“Con
thuyền ngoài sông
(tặng
X. Hòa)
Sáng
thức dậy
Mười
ngón tay vẫn đủ
Bạn
bè tôi
sống chết
gửi đâu rồi.”
Bài thơ có ý bị diễn chưa đạt. Dễ hiểu nhầm. Bạn thân mình dạo
đó không đứa nào ở tình trạng “chết”. Có “T. Trâu” sang Campuchia xung trận thì
đã mang trọn thân hình về. Chết ở đây là phần mình. Câu thơ đăng đối: “bạn bè” - “sống”; “tôi” - “chết”.
Hà Nội ơi…
Không kể các lần
“hiếu lệ” (mình chế ra chữ này chỉ việc khóc báo hiếu song thân), về Hà Nội mình
được hai lần khóc nước mắt chảy ra ngoài. Đều ở trường học. Lần vào thăm trường
nơi đã qua lớp 10. Trường cũ ngay cạnh nhà, dễ chuẩn bị chu đáo. Ban ngày, mình
chọn sau giờ tan trường. Vào giữa sân trường nhìn lên lớp cũ, vừa “khóc” một
hai cái thì bị hai ba “bạn” đi qua bắt gặp. Ái ngại, các bạn nghĩ mình đến đón
con hay cháu gì đó mà nó bỏ về trước mất!? Chắc thấy mình có “đôi mắt mang hình…”
giọt lệ, các bạn lại lẳng lặng bỏ đi như vừa lẳng lặng đến gần. Coi như “kế
hoạch khóc” hỏng! Lần vào trường đại học, mình đi đêm. Tất nhiên. Tới tận thềm
bộ môn cũ, nơi từng học từng làm việc. May, cả khu đại học rộng lớn thay đổi
quá chừng nhưng riêng một góc vẫn cảnh xưa hồn cũ. Chả ma nào thèm nhìn. Khóc
hết “kế hoạch” mà cậu cháu (bị mình giả vờ nhờ phóng đi mua cái lăng nhăng gì
đó) vẫn chưa quay về đón... Trưa hôm sau, đến thăm lại. Lúc đưa tiễn, hai đồng
nghiệp cũ thấy mình tần ngần ra lối cổng sau, đứng nhìn. Hỏi anh tìm gì đấy. Tớ
tìm các dòng nước mắt đêm qua… Đùa thôi, đâu dám làm thi sĩ lúc đó. Giờ về bên
này biển Thái Bình Dương, 4 năm rồi mới viết ra đây. Lúc đó, im lặng.
Còn các nơi chốn Hà Nội mỗi lần về
thăm khiến nước mắt chảy vào trong? Nhiều, nhiều ơi là nhiều. Mình dự tính (lại
còn cho in đậm là “sắp in” nơi bìa sau của một cuốn sách đã xuất bản hẳn hoi) cho
ra tập trường ca mang tên Những dòng thơ
không thể chảy về đâu. Ẩn dụ thế thôi. Thơ, nước mắt đấy. Chứ còn gì nữa! Chảy
về Hà Nội. Chứ còn đâu nữa!
Hà Nội ơi…
Nhìn đời, mình còn hạn hẹp, ngây ngô; nhìn người không tinh
tường lại dễ tin. (Chúng bạn, đàn anh hay đe mày á, nếu là con gái có mà suốt
năm bị chửa!). Đã thế mình lại thích để ý chuyện thế thái nhân tình. Chẳng hạn,
quan hệ của những người không sinh ra ở Hà Nội với tính cách Hà Nội ở họ trong
khi sinh sống, lập nghiệp tại đó. Thử kể một số người tiếng tăm và hiện không
còn nữa: Văn Tâm (thày dạy mình môn Văn lớp 10), Hoàng Ngọc Hiến (mình được ít
nhiều tiếp xúc từ lâu, những năm trước khi bác ấy mất thì có quan hệ đồng
nghiệp gọi là tương đối gần), Đà Linh (sẽ nói dưới đây), v.v… Không phải mình
vơ vào chất Hà Nội ở tất cả danh nhân, nhân vật từng hoạt động ở Hà Nội. Ví
như: Phan Khôi, Trần Quốc Vượng (cả hai vị mình tuyệt không quen biết), v.v…
Đà Linh - Nguyễn Đức Hùng, nhà văn kiêm dịch giả và cũng là
người làm xuất bản có tâm huyết và tầm vóc, sớm qua đời vì bạo bệnh. Mình nhận lời viết bài này với báo Tiền
Phong vào hôm qua, ngày giỗ đầu của anh. Tuần rồi, ở Hà Nội đã ra mắt sách Đà Linh - Trí thức dấn thân, gồm bài
viết từ khoảng 30 nhà văn, bạn hữu nói về Đà Linh cùng một tuyển chọn những
sáng tác của anh.
Chủ biên cuốn sách, và cũng bạn thân của Đà Linh, nhà văn Lê
Anh Hoài đã viết: “Toàn bộ công việc Đà
Linh đã làm, cũng có thể gọi là một quá trình phản biện xã hội. Chỉ có điều anh
không ồn ào khoa trương. Anh không đăng đàn diễn thuyết. Anh làm trong lặng lẽ,
với thái độ của một trí thức cầu thị văn hóa, đứng về sự tiến bộ”.
Vốn viết chậm và lang bang, từ cuối năm ngoái khi anh em hú
gọi chuẩn bị bài vở, mình thảo sẵn một trường ca mang tên Sách xanh. Đã xong 4 chương ngon lành; dự tính hơn 10 chương-hồi. Viết lách,
mình thường theo kiểu mở và lắp ghép. Lúc nào cũng có thể xong; mà mãi cũng
không thể xong. Bài đang viết đây là thế. Sách
xanh hiển nhiên vậy, và còn hơn cả vậy. Một trường ca mình nhận chịu nhiều
thử thách nhất về thi pháp cũng như chủ đề từ khi viết thể loại này. Cũng được
góp một trích đoạn vào cuốn sách tiễn bạn hiền tài hoa mệnh yểu. Ngẫm lại thấy
mình quá ư liều bút mà dám thay lời cả Hà Nội đề câu trong lời kết trường ca: “Cám ơn xứ sở Quảng Nam - Đà Nẵng đã cho thủ
đô Hà Nội một ‘trai Hà Thành’ đúng nghĩa.”
Mình chưa được
là bạn thân của Đà Linh đâu. Không kể thỉnh thoảng việc bài vở, còn thì không
thư giao nhiều. Mình cũng chưa có sách riêng gì khiến người làm sách xuất chúng
đó để tâm. Anh cũng đôi lần biên tập, phê bình bài vở và trường ca của mình. Và
trời cho chúng mình chỉ được gặp nhau “nhõn” một lần. May, một lần song lại là “đêm
nằm năm ở’. Dịp mình về Hà Nội, hai người hẹn gặp trò chuyện, nhậu khuya… Thấy
mình ngại về nơi ở, phiền chủ nhà. Anh hoan hỉ mời mình tới nhà nghỉ đêm để còn
chuyện tiếp, và đằng nào sáng sớm cũng cùng đi việc hiếu của một bạn văn khác. Đọc
trường ca sẽ thấy mình hiểu Đà Linh mang chất Hà Nội thế nào.
Sau đây là tâm
sự của anh, với họa sĩ - nhà văn Trần Trọng Vũ, con trai út cố thi sĩ Trần Dần,
khi hai người bàn về tuyển tập Trần Dần -
Thơ: “Gia đình tôi tập kết ra Bắc năm
1954. Nên tôi sinh ra và học hành ở Hà Nội. Sau này sống và làm việc ở Đà Nẵng,
quê cha tôi, nhưng tâm hồn và con người tôi luôn hướng về Hà Nội. Tôi có in
được tác phẩm lớn của nhà văn, nhà thơ nào của Hà Nội, đấy là đóng góp của một
người Hà Nội cho Hà Nội. Hơn nữa, giới văn chương đều biết tiếng ông cụ là một
hồn thơ lạ và luôn đổi mới. Rất cần công bố thơ của cụ vào lúc nhà nước đang
chủ trương đổi mới văn học.”
Hà Nội ơi
Năm năm qua,
mình mần mò làm biên khảo về trào lưu trường ca Việt Nam
tính từ thời Thơ mới, bất kể trong-ngoài nước, Nam-Bắc trước-sau 1975, trong đó
có việc lập danh sách tác giả và tác phẩm trường ca Việt. Đã từng đăng rả rích
ở các trang mạng; sẵn dịp cập nhật: đang có chừng 430 tác giả Việt Nam đã viết
ít nhất một trường ca hoặc một bài thơ dài mang ý nghĩa tương đương, với tổng
số khoảng 1.118 tác phẩm gọi chung là trường ca. Với đề tài Hà Nội, mình vội
nhích ra đây các sáng tác tạm tính theo tên bài.
Về trường ca: Hoài
Anh với Trường ca Điện Biên - tổ khúc Hà
Nội (1954); Nguyễn Đức Bính / Hà Nội
(1969); Nguyễn Hương Trâm / Hà Nội –
Thăng Long (1983); Vương Trọng / Hà Nội của tôi (2008); Phan Vũ / Em ơi - Hà Nội phố (1972).
Thơ dài có chất
trường ca: Thu Bồn / Hà Nội ngày nào
(1996); Nguyễn Linh Khiếu / Lá non mùa Hà Nội (2010); Yến Lan / 1957 - Hà Nội sang hè (1957); Ngô Văn
Phú / Hà Nội tháng 12 (2003).
Hà Nội ơi…
Ký giả biết mình
có tật lang bang nên khi nhờ viết bài đã nhắc nhỏ “nhà thơ đả động tí về sự đẹp và không đẹp của Hà Nội, nhất là cái không
đẹp của Hà Nội nay”. Thì vẫn. Bọn mình ra ngoài này cốt vậy mà! Thật tình,
cực lưu tâm đấy. Song, ở tạp văn hôm nay chỉ đủ không gian nói đúng một “tí”
thôi.
Về các thảo luận
trên báo chí, trang mạng: Hãy nói về con người Hà Nội, xưa và nay? Hà Nội vốn
như một thành phố mở, người tứ phương đổ về và gần đây đổ về ngày thêm nhiều,
vậy bản sắc người Hà Nội ra sao? Giọng nói Hà Nội thế nào là chuẩn; người Hà
Nội bây giờ là ai; vẻ thanh lịch Hà Nội xưa đâu rồi? Mình lưu giữ hết; ghi chép,
lập hồ sơ bài vở… Hai ba kho đầy. Thơ và thậm chí trường ca không kham nổi. Sẽ
“dí” hết vào tiểu thuyết chăng? Riêng mình thấy nội dung các tranh luận đa phần
cần và hay. Có điều, mình không trọng đúng-sai. (Không sai, tranh cãi làm chi!)
Quan trọng là thái độ, là mục đích. Tạm gọi là hay-dở.
Như ở văn Nguyễn
Việt Hà. Nhiều điều nhà tản văn tài hoa cắn cứa Hà Nội đau ra phết. Đọc phát
nhói, nhột. Nhưng đó là ngôn ngữ văn học. Và cũng từ cái tâm văn. Mình chịu.
Chứ còn với
không ít chỗ ở cách tự-phản-biện như bác Vương Trí Nhàn thì… “em chã”! Thông
tin, kiến thức, nhiệt huyết và nhất là thể tài (tài nhất việc dùng tư liệu nhật
ký bản thân để tái sáng tạo chân dung văn học cho các tác gia và thời đại) của
nhà phê bình văn học kiêm nhà nghiên cứu văn hóa có thể gọi là kỳ cựu ấy đã
được văn giới và độc giả đánh giá rất cao. Riêng mình vốn trọng tài phục chí
bác ấy từ khi còn là thằng em nhỏ của một đồng nghiệp với bác (mà có lần ở Thư
viện Quốc gia từng được bác chỉ cho ngữ pháp tiếng Nga khi mình đọc sách vật
lý.) Chính thế xin thưa trong tình huynh đệ bằng hữu, nếu bác cho phép: có cái
gỉ gì gi khó viết ra đây - ở một bài tiểu luận sẽ dễ hơn - về “khối tâm sự” của
tác giả.
Một điển hình.
Bàn về hai câu ca dao cổ “Chẳng thơm cũng
thể hoa nhài/ Dẫu không thanh lịch cũng người Tràng An”, Vương tiền bối bảo
thế vầy:
“Tôi không tán thành câu đó. Tôi cho rằng đó
là cái bệnh xấu của thành thị. Đó chỉ là cái hão, cái giả thôi nếu cứ tự nhận
là để bắt nạt những người nhà quê đi chăng nữa thì cái đó cũng vô nghĩa. Người
tự trọng không bao giờ nên tự hào vì điều đó. Còn chính người Hà Nội thật sự
thì phải nghĩ rằng mình chưa là mức của người Hà Nội, mình phải cố gắng hơn
nữa, phải trở thành con người mẫu mực của xã hội, tức là phải thanh lịch thật.
Cái đó mới đích thị là người Tràng An.” (nguoihanoi.com.vn 18/2/2009).
Mình muốn được
gọi nhanh, đó là cách phản biện duy lý, nhưng khác với thơ Phạm Đình Ân, nó
không có được chất minh triết Việt. Tức là mang búa lý luận phương Tây hòng làm
thịt gà mái tơ phương Đông. Tỷ như bác Vương mà làm thơ, kiểu như bác Phạm,
mình chịu liền: “Thanh lịch có thuộc về Tràng An/ Hay là không, thì vẫn cứ
Tràng An.”
Việc đọc và đọc
lại hai câu ca truyền đời đó đã kinh qua biết bao nhiêu luận bàn. Mình chỉ nói
thêm, với bác Vương: ở đây không thể bỏ qua cách đọc-hiểu ca dao, lục bát. Chưa
kể diễn ngôn nghệ thuật thơ mà có thể bác rê qua, ngay nội hàm ngữ nghĩa và ngữ
pháp dường như cũng chẳng được chú ý? Trong vụ này có nhẽ phải đọc-hiểu câu cú
theo quan hệ “đề thuyết Cao Xuân Hạo” cũng nên. Quan hệ chủ vị rành mạch của
Tây không ăn thua. Vô ngần quen thuộc và tinh tế là khi người Việt dùng cấu
trúc “Chẳng… cũng thể…”, “Dẫu không… cũng…”. “Chẳng trăm năm cũng một ngày duyên ta” ở Nguyễn Du. Đến Phan Khôi
đã thành một ma trận: “Làm sao cũng chẳng
làm sao/ Dẫu có thế nào cũng chẳng làm chi/ Làm chi cũng chẳng làm chi/ Dẫu có
làm gì cũng chẳng làm sao."
Mình nghĩ trong câu
lục bát đang bàn, các cụm từ có tính đăng đối, bình đẳng, chưa chắc là nhân
quả. Diễn nôm sau đây là không thấu hết lòng dạ người xưa: “Mợ là hoa nhài đây.
Mơ thơm lắm, dân quê ạ!”. Tam đoạn luận thế này là phá tan ý tứ dân Việt: “Cậu
là người Tràng An; vì đã Tràng An nên cậu phải thanh lịch; vậy nhà quê kia
không Tràng An thì không thanh lịch.” Còn nữa, về từ vựng. Ai cũng biết trong
tiếng Việt, “chẳng” chưa hẳn đã phủ định, và khác xa với “không”. Đến “chả” thì
tuyệt rồi. “Em chã…” là một đỉnh ngôn từ và diễn ngôn Việt được chuốt lên bởi
“kiến trúc sư” Vũ Trọng Phụng. Rồi đến “Dẫu không” cũng chưa chắc là một phủ
định mạnh.
Ba lần, mỗi lần về thăm quê nhà, mình thửa riêng một câu
thơ lẻ, thủ trong đáy lòng trên đầu lưỡi, ví dụ: “Đi xa về chưa thể nói điều chi.” Chỉ muốn làm một cái “Trung tâm
Nghe - Nhìn” thôi. Nghe nhiều. Nhìn kỹ. Qua bên này viết. Và viết…
Thế nên khi được nhà báo hỏi gợi ý
“Anh mong muốn gì về Hà Nội?”, mình suýt mất ngủ. Hôm 19 tháng Chín vừa qua, báo chí và trang
mạng cho hay Tòa đã xử vụ tranh chấp đất đai tại chính làng quê tổ họ Đỗ nhà
mình: “Dân oan Cấn Thị Thêu 15 tháng tù giam, ông Trịnh Bá Khiêm 18 tháng tù
giam và ông Lê Văn Thanh 12 tháng tù giam với tội danh ‘chống người thi hành
công vụ’”. “Những làng La tôi đã
quá yêu thân.” - Thơ bạn mình trong bài Hà
Đông ở trên. “La” đây có La
Dương, phải không? Hồi bé cứ nghe bố mẹ ông bà nhắc La Dương, La Dương… Từ hai năm nay mình đã cho vào kho tư liệu không biết bao
nhiêu tin bài về vụ thu hồi đất Dương Nội. Và giấc ngủ cũng phải đến để rồi
qua… Nhủ, thứ thi sĩ như mình trên đầu mây bay dưới tay thơ chảy. May lắm dành
được dăm trang thơ lưng vốn. Đâu thể mong muốn gì từ nơi khác. Lại nhủ, mình
phải viết gì cho xứng với danh Trai Hà Nội…
Hà Nội ơi…
Đỗ Quyên
*) Bản rút gọn của bài này đã được đăng trên tuần báo
Tiền Phong Chủ Nhật số 285 ra ngày 12/10/2014 và tienphong.vn
12/10/2014:
Nhà văn Đỗ Quyên cho một tản văn-tùy bút "chật đầy nỗi nhớ" và ....có "rào"...có "đón".
Trả lờiXóaXin chúc mừng tác giả
Nhờ bài viết này mới biết khối chuyện xưa của các anh giai 10H
Trả lờiXóaVt