Thứ Ba, 14 tháng 10, 2014

HÀ NỘI ƠI… *)


Tạp văn Đỗ Quyên
 Hà Nội ơi…
Trên giấy tờ mình không được sinh ra trùng ngày 10 tháng Mười năm 1954, nhưng lại được thành thai trên sinh lý hoặc tâm lý có lẽ trúng ngày đó? Vì sau ngày lịch sử ấy đúng 9 tháng 13 ngày, mình đã chào đời tại Bệnh viện Đồn Thủy (sau gọi là Quân y viện 108) của Hà Nội mà lị. So với mốc 10 tháng Mười, bố mẹ mình đã mang cả nhà về thủ đô chưa, mình có được kể; quên rồi. Dù sao mặc lòng: Nếu về trước 10 tháng Mười, chắc trong cái buổi “Năm cửa ô (…) như đài hoa đón mừng, nở năm cánh đào, chảy dòng sương sớm long lanh”, tức là sau khi đưa các anh chị mình đi dự lễ “đón mừng đoàn quân tiến về” thì bố mẹ mình “thừa thắng xông lên” quyết định sinh ra mình. Còn như nhà mình về thủ đô sau ngày đó, dù ở trên vùng tự do chắc hai cụ vẫn bị âm vang hòa bình lôi kéo. Giống nhiều gia đình thời đó: nhà mình đông anh chị em và có hai thế hệ cách xa nhau với mốc Giải phóng Thủ đô. Tóm, tuổi mụ, mình vẫn tự coi được sinh ra vào 10 tháng Mười năm 1954. Thế hệ Hòa bình.
Hà Nội ơi…
Cha mình sinh ra ở Phú Thọ. Mẹ mình cũng vậy. Quê nội nhà mình gốc ở Hà Đông. Gọi đúng chữ “về quê”, cho đến nay mình chỉ được về quê Phú Thọ “nhõn” 3 lần. (Chữ “nhõn” thời mình ở Hà Nội mọi người ưa dùng!) Lần một, thời chiến tranh được đi sơ tán tránh bom Mỹ, nhưng ít quá, chưa đầy một năm học mà lại ở huyện khác. Lần hai, được theo mẹ trong chuyến đi trối già của mẹ về quê ngoại. Lần ba, rất chậm trễ - năm 2010, sau 22 năm xa nước - lần đầu tiên về được tận làng của quê cha Phú Thọ. Còn đất tổ Hà Đông? Thú thật, chưa một lần về! Cả hai sự chậm trễ và sự chưa này đều là lỗi rất lớn. Của chính mình. Dạo bé, mình hay trách người lớn vì sao có 10 cây số từ Bờ Hồ - Hà Nội vào thị xã Hà Đông phải xa vời đến vậy. Nay thấy mình còn phạm lỗi hơn cả người lớn. Như cái lần về Việt Nam đó, đã được ông em con ông chú “thiết kế” chỉn chu một chuyến về quê tổ. Thế rồi tới giờ chót lại hoãn. Mình nghiệm bao lần rồi, trong các việc quê việc nhà, cứ hoãn cứ trễ là có thể sẽ không bao giờ. Vậy mà lần đó vẫn bị. Tức mình quá, mà không làm gì được mình.
Có lẽ mình thuộc vào lứa trẻ-không-quê, nếu không kể Hà Nội là nơi sinh ra, lớn lên và làm việc. Trẻ con thành phố thời đó vô khối đứa như thế. Nếu không có khách ở quê ra, không đi sơ tán tàu bay Mỹ - coi như mất quê! Kể từ khi biết làm thơ, mình càng tin (và tiếc cho bản thân): muốn thành thi sĩ Việt Nam giỏi, phải có đời sống thôn quê. Kỷ niệm về những phố xá, công sở, nhà cửa (nhất là khu tập thể!) chúng lang bang lắm. Rất khó tụ thành các giọt thơ. So với những cánh cò, dậu mồng tơi, ánh trăng lu…


Hà Nội ơi…
“Hà Đông có thuộc về Hà Nội
Hay là không, thì vẫn cứ Hà Đông”.

Phạm Đình Ân đấy! Anh dường như là người dẫn mình vào làng thơ Hà Thành và sau trở nên bạn thân thiết. Bài Hà Đông được viết vào năm 1985 khi cả nước ở ngưỡng cửa Đổi mới, từng vang tiếng trong dư luận bạn đọc, được ngâm ngợi trên đài báo nhiều lần và cho đến tận các năm gần đây (như mình vừa thấy qua một bài bình trên mạng qdnd.vn ngày 18 tháng Hai năm 2010). Si tới độ “Nghìn buổi chiều tôi đến, phải về không”, một bài thơ tình trai gái đúng nghĩa được xây trên nền sử ký, địa dư, xã hội qua câu chuyện một vùng ngoại vi xoay xỏa cùng trung tâm, trong công cuộc thủ đô phải tung nở tại bước ngoặt nguy khó không thể cưỡng nổi - “điện sông Đà hé sáng giữa gian lao”. Khúc trữ tình riêng tây được mở và khóa bởi tính cận duy lý trong minh triết Việt. Khóa là hai câu trên. Mở:
“Hà Đông vốn thuộc về Hà Nội
nay thì không mà vẫn cứ Hà Đông.”

Ra đây mỗi khi nhớ quê nhà, lại lấy thơ bạn ra nhớ. Bạn thế mới là bạn, thơ thế mới là thơ!
Hà Nội ơi…
Minh mù về nhạc. Chỉ dùng nhạc khi thật cần. Đời còn biết bao thứ cần hơn. Thơ này. Hay như hôm nay viết bài nộp báo chào mừng 60 năm tái sinh Thủ đô này... Nhạc không là mục đích mà là phương tiện dìu dặt mình tới thơ và những gì quanh quẩn thơ.
Cụ thể: Những khi công việc dồn dập (cần vứt gạt trăm thứ để đi làm thơ, hay phải viết bài kịp hẹn tòa soạn, hoặc cấp tập dọn dẹp bài vở trước khi đi xa…) thì mình lại phải Tiến về Hà Nội cùng Văn Cao. Vừa nghe vừa đọc nháo nhào trăm thứ, để vứt đi hay cho vào kho. May, hai năm nay có phiên bản của Tạ Quang Thắng, Bảo Trâm và Sinh viên Tuổi 20. Chứ trước “phang” phiên bản cũ, được việc đấy nhưng hại sức khỏe. Máu bốc từ ngón chân lên đỉnh đầu. Nay lắng dịu, chan hòa hơn mà vẫn tiến về Thủ đô ngon ơ! Có nhiều bận nghe các em các cháu chúng nó luyến láy mà quên cả trang thơ đợi mở trắng tinh.
Còn các lúc cần phải buồn tình, tình riêng chung hay tình thế sự, dữ dội nhất là những năm đầu xa nước, thì cứ Hướng về Hà Nội theo Hoàng Dương. Nhưng phải do Tuấn Ngọc hát. Ở đó có một nỗi buồn thảm đang kêu gọi (như loài chim mà mình chọn làm bút danh). Từ 1994 đến nay, khúc ca tuyệt vời đã được thành đại trà; có cả tá ca sĩ nam nữ già trẻ tầm thượng thặng trình diễn. Kệ, mình vẫn chăm chăm Tuấn Ngọc. Thi thoảng nghiêng ngó qua diva Hồng Nhung cho hợp thời. Cổ kim đông tây, để làm thơ không buồn là không xong. Vậy Hướng về Hà Nội đi, thế nào thơ cũng tới.
Tất nhiên, người nào cũng hỉ, nộ, ai, lạc, ái, ố, dục, thất tình lục đục. Ngoài hai cái chính đã nêu, mình có đủ tâm trạng khác khi làm các việc khác như người thường. Trên màn hình máy tính, mình cẩn thận giăng một hàng ngang các đường dẫn vào những bản nhạc với hai bản nhạc đó chặn hai đầu. (Trông giống cái dây thép phơi quần áo giữa sân chung ở các nhà tập thể Hà Nội thời Bao cấp!)
Nửa năm qua dây nhạc gồm có: Cesaria Evora bài Sodade, Phạm Duy - Kỷ niệm; Johann Strauss II - Wiener Bonbons op.307; Bùi Đình Thảo, thơ Hoàng Minh Chính - Đi học, Anh Khang & Quang Thắng song ca; Antonín Dvořák - Symphony No. 9; Dương Thụ - Ô cửa sổ mùa đông; Spanish Guitar Music - Vol.3; Paul Anka - My Way; Ofra Haza - Adama… Đại khái thế. Và mỗi khi chuyển qua máy khác, sao chụp xong bài vở dang dở, vội gì thì vội mình cũng lôi theo “đội nhạc công” đứng đầu là “đội trưởng” Hướng về Hà Nội với câu đầu:
Hà Nội ơi…
Ghế đá trước Đại sứ quán Ba Lan trước đây trên đường Bà Huyện Thanh Quan, đầu đường Điện Biên Phủ tới phố Lê Hồng Phong. “Bè lũ năm tên” tụi mình quy ước tối thứ bảy hay chủ nhật hàng tuần, ai tiện thì đáo qua, ngay cả khi không có hẹn trước. Lệ có từ khi học lớp 10, được giữ gìn cho đến khi cả bọn lớn tướng, đi làm cả, một đứa có vợ con. Chỗ ghế tựa cây nhỏ, sáng choang, nhìn ra thảm cỏ rộng thênh. Hiếm khi bị các đôi tình nhân chiếm đoạt. Nhiều lần, mưa lâm râm mình cũng ra đó. Dù để mình gặp mình... Cũng không ít lần gặp “T. Phán”. Mình và bạn ấy thích đạp xe chậm, kịp ngửi hơi đất Hà Nội bốc nhè nhẹ dưới làn mưa bụi, trên đoạn đường Trần Phú. Mẹ mình thấy con dắt xe đội mưa ngẩng mặt ra ghế đá hẹn với mấy bạn trai, cứ cười tủm tỉm tủm tỉm mỗi khi mình chào mẹ con đi. Sau ngày mẹ mất, mình vẫn đầu đội mưa bụi Hà Nội thế thôi. Rồi sau nữa, những buổi một mình đội gió tuyết Đông Âu, Nam Úc, Bắc Mỹ, chẳng nhớ Hà Nội chẳng thương mẹ sao đành!
Chuyện bạn trai tụ tập tán ngẫu của mình: nhiều, và bình thường. Như đa số đám bạn khác, phải công nhận là lành; ngoài mình ra, bốn bạn kia đều là cán bộ, cán sự lớp, cán bộ Đoàn các kiểu. Ấn tượng nhất là bữa đó “trời đất nổi cơn gió bụi”, một bạn (ắt là “B. Tè”?) nhắc câu đố của tụi bạn trường Trỗi cũ: Khắp phố xá Hà Nội có bao nhiêu nhà vệ sinh công cộng WC? Đứa nhẩm: chắc chắn năm; đứa xòe tay đếm: chín. Rồi năm đứa phóng xe đi. Tìm và đếm. Ba bốn buổi mới hết. Đâu như được 18 cái cả thảy? Mình không nhớ, chỉ nhớ đã ghi lại ngay. Rất nhớ có hai WC gây hậu quả. WC ở phố Đồng Xuân, khi bình thưởng, cả bọn cãi ỏm tỏi do chưa nhất trí khái niệm “nhà vệ sinh công cộng” là phải thuận tiện ngay trên phố xá, hay có thể sâu hun hút trong “siêu thị” chợ Đồng Xuân thời đó. Còn cái ở ngã tư đầu phố Lê Đại Hành, gần cuối đường Bà Triệu, mé kia là nhà máy cơ khí Trần Hưng Đạo, thì sau đó đã làm mình hỏng việc khi đang “tìm hiểu” một cô bạn gái. (Vụ này tức cười vô cùng, khi rảnh mới “tám” được.) Hôm về thăm, đứng nhìn mãi ngã tư cũ đang là ngã sáu tấp nập trên cái “WC tuổi trẻ” của mình.
Nói cho ngay, mình thật không nhớ “B. Tè” là khởi xướng viên hay không. Có lẽ chỉ vì nick của bạn ấy có chữ “tè”. Nghe nói thời học ở trường Nguyễn Văn Trỗi bên Quế Lâm, Trung Quốc trong các năm chiến tranh phá hoại miền Bắc, B. hay tè khi ngủ. Trường tuyền là dân “4C”/”con cháu các cụ”, được nuông chiều lại phải xa nhà khi còn chưa rành tè ị, thành thử đám con trai rất giỏi đánh nhau. Năm bạn thì bốn có võ Tàu! Các thiếu sinh quân đó cần tiêu chí Ngoan. “B. Tè” cực ngoan, học giỏi, có tài lãnh đạo, vui tính… Lắm lúc, nhớ các bạn học phổ thông, lại ngẫm cũng có khi mình không nhớ thật! Giai thoại đi tìm và đếm WC có thể xảy ra hồi mình học lớp 8, lớp 9 ở trường khác? Mà cũng có thể xảy ra trong mơ? Đại khái thế…
Dạo mới ra ngoài này, có bữa bỗng dưng nhớ các bạn học cũ quá. Mình viết thành thơ:

“Con thuyền ngoài sông

(tặng X. Hòa)

Sáng thức dậy
Mười ngón tay vẫn đủ
Bạn bè tôi
                sống chết
gửi đâu rồi.”
Bài thơ có ý bị diễn chưa đạt. Dễ hiểu nhầm. Bạn thân mình dạo đó không đứa nào ở tình trạng “chết”. Có “T. Trâu” sang Campuchia xung trận thì đã mang trọn thân hình về. Chết ở đây là phần mình. Câu thơ đăng đối: “bạn bè” - “sống”; “tôi” - “chết”.

Hà Nội ơi…
Không kể các lần “hiếu lệ” (mình chế ra chữ này chỉ việc khóc báo hiếu song thân), về Hà Nội mình được hai lần khóc nước mắt chảy ra ngoài. Đều ở trường học. Lần vào thăm trường nơi đã qua lớp 10. Trường cũ ngay cạnh nhà, dễ chuẩn bị chu đáo. Ban ngày, mình chọn sau giờ tan trường. Vào giữa sân trường nhìn lên lớp cũ, vừa “khóc” một hai cái thì bị hai ba “bạn” đi qua bắt gặp. Ái ngại, các bạn nghĩ mình đến đón con hay cháu gì đó mà nó bỏ về trước mất!? Chắc thấy mình có “đôi mắt mang hình…” giọt lệ, các bạn lại lẳng lặng bỏ đi như vừa lẳng lặng đến gần. Coi như “kế hoạch khóc” hỏng! Lần vào trường đại học, mình đi đêm. Tất nhiên. Tới tận thềm bộ môn cũ, nơi từng học từng làm việc. May, cả khu đại học rộng lớn thay đổi quá chừng nhưng riêng một góc vẫn cảnh xưa hồn cũ. Chả ma nào thèm nhìn. Khóc hết “kế hoạch” mà cậu cháu (bị mình giả vờ nhờ phóng đi mua cái lăng nhăng gì đó) vẫn chưa quay về đón... Trưa hôm sau, đến thăm lại. Lúc đưa tiễn, hai đồng nghiệp cũ thấy mình tần ngần ra lối cổng sau, đứng nhìn. Hỏi anh tìm gì đấy. Tớ tìm các dòng nước mắt đêm qua… Đùa thôi, đâu dám làm thi sĩ lúc đó. Giờ về bên này biển Thái Bình Dương, 4 năm rồi mới viết ra đây. Lúc đó, im lặng.
Còn các nơi chốn Hà Nội mỗi lần về thăm khiến nước mắt chảy vào trong? Nhiều, nhiều ơi là nhiều. Mình dự tính (lại còn cho in đậm là “sắp in” nơi bìa sau của một cuốn sách đã xuất bản hẳn hoi) cho ra tập trường ca mang tên Những dòng thơ không thể chảy về đâu. Ẩn dụ thế thôi. Thơ, nước mắt đấy. Chứ còn gì nữa! Chảy về Hà Nội. Chứ còn đâu nữa!
Hà Nội ơi…
Nhìn đời, mình còn hạn hẹp, ngây ngô; nhìn người không tinh tường lại dễ tin. (Chúng bạn, đàn anh hay đe mày á, nếu là con gái có mà suốt năm bị chửa!). Đã thế mình lại thích để ý chuyện thế thái nhân tình. Chẳng hạn, quan hệ của những người không sinh ra ở Hà Nội với tính cách Hà Nội ở họ trong khi sinh sống, lập nghiệp tại đó. Thử kể một số người tiếng tăm và hiện không còn nữa: Văn Tâm (thày dạy mình môn Văn lớp 10), Hoàng Ngọc Hiến (mình được ít nhiều tiếp xúc từ lâu, những năm trước khi bác ấy mất thì có quan hệ đồng nghiệp gọi là tương đối gần), Đà Linh (sẽ nói dưới đây), v.v… Không phải mình vơ vào chất Hà Nội ở tất cả danh nhân, nhân vật từng hoạt động ở Hà Nội. Ví như: Phan Khôi, Trần Quốc Vượng (cả hai vị mình tuyệt không quen biết), v.v…

Đà Linh - Nguyễn Đức Hùng, nhà văn kiêm dịch giả và cũng là người làm xuất bản có tâm huyết và tầm vóc, sớm qua đời vì bạo bệnh. Mình nhận lời viết bài này với báo Tiền Phong vào hôm qua, ngày giỗ đầu của anh. Tuần rồi, ở Hà Nội đã ra mắt sách Đà Linh - Trí thức dấn thân, gồm bài viết từ khoảng 30 nhà văn, bạn hữu nói về Đà Linh cùng một tuyển chọn những sáng tác của anh.
Chủ biên cuốn sách, và cũng bạn thân của Đà Linh, nhà văn Lê Anh Hoài đã viết: “Toàn bộ công việc Đà Linh đã làm, cũng có thể gọi là một quá trình phản biện xã hội. Chỉ có điều anh không ồn ào khoa trương. Anh không đăng đàn diễn thuyết. Anh làm trong lặng lẽ, với thái độ của một trí thức cầu thị văn hóa, đứng về sự tiến bộ”.

Vốn viết chậm và lang bang, từ cuối năm ngoái khi anh em hú gọi chuẩn bị bài vở, mình thảo sẵn một trường ca mang tên Sách xanh. Đã xong 4 chương ngon lành; dự tính hơn 10 chương-hồi. Viết lách, mình thường theo kiểu mở và lắp ghép. Lúc nào cũng có thể xong; mà mãi cũng không thể xong. Bài đang viết đây là thế. Sách xanh hiển nhiên vậy, và còn hơn cả vậy. Một trường ca mình nhận chịu nhiều thử thách nhất về thi pháp cũng như chủ đề từ khi viết thể loại này. Cũng được góp một trích đoạn vào cuốn sách tiễn bạn hiền tài hoa mệnh yểu. Ngẫm lại thấy mình quá ư liều bút mà dám thay lời cả Hà Nội đề câu trong lời kết trường ca: “Cám ơn xứ sở Quảng Nam - Đà Nẵng đã cho thủ đô Hà Nội một ‘trai Hà Thành’ đúng nghĩa.”

Mình chưa được là bạn thân của Đà Linh đâu. Không kể thỉnh thoảng việc bài vở, còn thì không thư giao nhiều. Mình cũng chưa có sách riêng gì khiến người làm sách xuất chúng đó để tâm. Anh cũng đôi lần biên tập, phê bình bài vở và trường ca của mình. Và trời cho chúng mình chỉ được gặp nhau “nhõn” một lần. May, một lần song lại là “đêm nằm năm ở’. Dịp mình về Hà Nội, hai người hẹn gặp trò chuyện, nhậu khuya… Thấy mình ngại về nơi ở, phiền chủ nhà. Anh hoan hỉ mời mình tới nhà nghỉ đêm để còn chuyện tiếp, và đằng nào sáng sớm cũng cùng đi việc hiếu của một bạn văn khác. Đọc trường ca sẽ thấy mình hiểu Đà Linh mang chất Hà Nội thế nào.
Sau đây là tâm sự của anh, với họa sĩ - nhà văn Trần Trọng Vũ, con trai út cố thi sĩ Trần Dần, khi hai người bàn về tuyển tập Trần Dần - Thơ: Gia đình tôi tập kết ra Bắc năm 1954. Nên tôi sinh ra và học hành ở Hà Nội. Sau này sống và làm việc ở Đà Nẵng, quê cha tôi, nhưng tâm hồn và con người tôi luôn hướng về Hà Nội. Tôi có in được tác phẩm lớn của nhà văn, nhà thơ nào của Hà Nội, đấy là đóng góp của một người Hà Nội cho Hà Nội. Hơn nữa, giới văn chương đều biết tiếng ông cụ là một hồn thơ lạ và luôn đổi mới. Rất cần công bố thơ của cụ vào lúc nhà nước đang chủ trương đổi mới văn học.”

Hà Nội ơi

Năm năm qua, mình mần mò làm biên khảo về trào lưu trường ca Việt Nam tính từ thời Thơ mới, bất kể trong-ngoài nước, Nam-Bắc trước-sau 1975, trong đó có việc lập danh sách tác giả và tác phẩm trường ca Việt. Đã từng đăng rả rích ở các trang mạng; sẵn dịp cập nhật: đang có chừng 430 tác giả Việt Nam đã viết ít nhất một trường ca hoặc một bài thơ dài mang ý nghĩa tương đương, với tổng số khoảng 1.118 tác phẩm gọi chung là trường ca. Với đề tài Hà Nội, mình vội nhích ra đây các sáng tác tạm tính theo tên bài.

Về trường ca: Hoài Anh với Trường ca Điện Biên - tổ khúc Hà Nội (1954); Nguyễn Đức Bính / Hà Nội (1969); Nguyễn Hương Trâm / Hà Nội – Thăng Long (1983); Vương Trọng / Hà Nội của tôi (2008); Phan Vũ / Em ơi - Hà Nội phố (1972).
Thơ dài có chất trường ca: Thu Bồn / Hà Nội ngày nào (1996); Nguyễn Linh Khiếu / Lá non mùa Hà Nội (2010); Yến Lan / 1957 - Hà Nội sang hè (1957); Ngô Văn Phú / Hà Nội tháng 12 (2003).

Hà Nội ơi…
Ký giả biết mình có tật lang bang nên khi nhờ viết bài đã nhắc nhỏ “nhà thơ đả động tí về sự đẹp và không đẹp của Hà Nội, nhất là cái không đẹp của Hà Nội nay”. Thì vẫn. Bọn mình ra ngoài này cốt vậy mà! Thật tình, cực lưu tâm đấy. Song, ở tạp văn hôm nay chỉ đủ không gian nói đúng một “tí” thôi.

Về các thảo luận trên báo chí, trang mạng: Hãy nói về con người Hà Nội, xưa và nay? Hà Nội vốn như một thành phố mở, người tứ phương đổ về và gần đây đổ về ngày thêm nhiều, vậy bản sắc người Hà Nội ra sao? Giọng nói Hà Nội thế nào là chuẩn; người Hà Nội bây giờ là ai; vẻ thanh lịch Hà Nội xưa đâu rồi? Mình lưu giữ hết; ghi chép, lập hồ sơ bài vở… Hai ba kho đầy. Thơ và thậm chí trường ca không kham nổi. Sẽ “dí” hết vào tiểu thuyết chăng? Riêng mình thấy nội dung các tranh luận đa phần cần và hay. Có điều, mình không trọng đúng-sai. (Không sai, tranh cãi làm chi!) Quan trọng là thái độ, là mục đích. Tạm gọi là hay-dở.

Như ở văn Nguyễn Việt Hà. Nhiều điều nhà tản văn tài hoa cắn cứa Hà Nội đau ra phết. Đọc phát nhói, nhột. Nhưng đó là ngôn ngữ văn học. Và cũng từ cái tâm văn. Mình chịu.

Chứ còn với không ít chỗ ở cách tự-phản-biện như bác Vương Trí Nhàn thì… “em chã”! Thông tin, kiến thức, nhiệt huyết và nhất là thể tài (tài nhất việc dùng tư liệu nhật ký bản thân để tái sáng tạo chân dung văn học cho các tác gia và thời đại) của nhà phê bình văn học kiêm nhà nghiên cứu văn hóa có thể gọi là kỳ cựu ấy đã được văn giới và độc giả đánh giá rất cao. Riêng mình vốn trọng tài phục chí bác ấy từ khi còn là thằng em nhỏ của một đồng nghiệp với bác (mà có lần ở Thư viện Quốc gia từng được bác chỉ cho ngữ pháp tiếng Nga khi mình đọc sách vật lý.) Chính thế xin thưa trong tình huynh đệ bằng hữu, nếu bác cho phép: có cái gỉ gì gi khó viết ra đây - ở một bài tiểu luận sẽ dễ hơn - về “khối tâm sự” của tác giả.

Một điển hình. Bàn về hai câu ca dao cổ “Chẳng thơm cũng thể hoa nhài/ Dẫu không thanh lịch cũng người Tràng An”, Vương tiền bối bảo thế vầy:

Tôi không tán thành câu đó. Tôi cho rằng đó là cái bệnh xấu của thành thị. Đó chỉ là cái hão, cái giả thôi nếu cứ tự nhận là để bắt nạt những người nhà quê đi chăng nữa thì cái đó cũng vô nghĩa. Người tự trọng không bao giờ nên tự hào vì điều đó. Còn chính người Hà Nội thật sự thì phải nghĩ rằng mình chưa là mức của người Hà Nội, mình phải cố gắng hơn nữa, phải trở thành con người mẫu mực của xã hội, tức là phải thanh lịch thật. Cái đó mới đích thị là người Tràng An.” (nguoihanoi.com.vn 18/2/2009).

Mình muốn được gọi nhanh, đó là cách phản biện duy lý, nhưng khác với thơ Phạm Đình Ân, nó không có được chất minh triết Việt. Tức là mang búa lý luận phương Tây hòng làm thịt gà mái tơ phương Đông. Tỷ như bác Vương mà làm thơ, kiểu như bác Phạm, mình chịu liền: “Thanh lịch có thuộc về Tràng An/ Hay là không, thì vẫn cứ Tràng An.”

Việc đọc và đọc lại hai câu ca truyền đời đó đã kinh qua biết bao nhiêu luận bàn. Mình chỉ nói thêm, với bác Vương: ở đây không thể bỏ qua cách đọc-hiểu ca dao, lục bát. Chưa kể diễn ngôn nghệ thuật thơ mà có thể bác rê qua, ngay nội hàm ngữ nghĩa và ngữ pháp dường như cũng chẳng được chú ý? Trong vụ này có nhẽ phải đọc-hiểu câu cú theo quan hệ “đề thuyết Cao Xuân Hạo” cũng nên. Quan hệ chủ vị rành mạch của Tây không ăn thua. Vô ngần quen thuộc và tinh tế là khi người Việt dùng cấu trúc “Chẳng… cũng thể…”, “Dẫu không… cũng…”. “Chẳng trăm năm cũng một ngày duyên ta” ở Nguyễn Du. Đến Phan Khôi đã thành một ma trận: “Làm sao cũng chẳng làm sao/ Dẫu có thế nào cũng chẳng làm chi/ Làm chi cũng chẳng làm chi/ Dẫu có làm gì cũng chẳng làm sao."

Mình nghĩ trong câu lục bát đang bàn, các cụm từ có tính đăng đối, bình đẳng, chưa chắc là nhân quả. Diễn nôm sau đây là không thấu hết lòng dạ người xưa: “Mợ là hoa nhài đây. Mơ thơm lắm, dân quê ạ!”. Tam đoạn luận thế này là phá tan ý tứ dân Việt: “Cậu là người Tràng An; vì đã Tràng An nên cậu phải thanh lịch; vậy nhà quê kia không Tràng An thì không thanh lịch.” Còn nữa, về từ vựng. Ai cũng biết trong tiếng Việt, “chẳng” chưa hẳn đã phủ định, và khác xa với “không”. Đến “chả” thì tuyệt rồi. “Em chã…” là một đỉnh ngôn từ và diễn ngôn Việt được chuốt lên bởi “kiến trúc sư” Vũ Trọng Phụng. Rồi đến “Dẫu không” cũng chưa chắc là một phủ định mạnh.

Ba lần, mỗi lần về thăm quê nhà, mình thửa riêng một câu thơ lẻ, thủ trong đáy lòng trên đầu lưỡi, ví dụ: “Đi xa về chưa thể nói điều chi.” Chỉ muốn làm một cái “Trung tâm Nghe - Nhìn” thôi. Nghe nhiều. Nhìn kỹ. Qua bên này viết. Và viết…
Thế nên khi được nhà báo hỏi gợi ý “Anh mong muốn gì về Hà  Nội?”, mình suýt mất ngủ. Hôm 19 tháng Chín vừa qua, báo chí và trang mạng cho hay Tòa đã xử vụ tranh chấp đất đai tại chính làng quê tổ họ Đỗ nhà mình: “Dân oan Cấn Thị Thêu 15 tháng tù giam, ông Trịnh Bá Khiêm 18 tháng tù giam và ông Lê Văn Thanh 12 tháng tù giam với tội danh ‘chống người thi hành công vụ’”. “Những làng La tôi đã quá yêu thân.” - Thơ bạn mình trong bài Hà Đông ở trên. “La” đây có La Dương, phải không? Hồi bé cứ nghe bố mẹ ông bà nhắc La Dương, La Dương… Từ hai năm nay mình đã cho vào kho tư liệu không biết bao nhiêu tin bài về vụ thu hồi đất Dương Nội. Và giấc ngủ cũng phải đến để rồi qua… Nhủ, thứ thi sĩ như mình trên đầu mây bay dưới tay thơ chảy. May lắm dành được dăm trang thơ lưng vốn. Đâu thể mong muốn gì từ nơi khác. Lại nhủ, mình phải viết gì cho xứng với danh Trai Hà Nội…

Hà Nội ơi…

Vancouver, 10/10/2014
Đỗ Quyên

Cùng nhà thơ Phạm Đình Ân

------------
*) Bản rút gọn của bài này đã được đăng trên tuần báo Tiền Phong Chủ Nhật số 285 ra ngày 12/10/2014 và tienphong.vn 12/10/2014:




2 nhận xét:

  1. Nhà văn Đỗ Quyên cho một tản văn-tùy bút "chật đầy nỗi nhớ" và ....có "rào"...có "đón".
    Xin chúc mừng tác giả

    Trả lờiXóa
  2. Nhờ bài viết này mới biết khối chuyện xưa của các anh giai 10H
    Vt

    Trả lờiXóa