Thứ Tư, 29 tháng 6, 2011

Nhớ Về Hà Nội

Ai mới là người Tràng An?


Tôi 30 tuổi sinh ra và lớn lên ở đất Hà Nội này. Bố tôi là một giáo sư đầu nghành, mẹ tôi từng là hiệu phó một trường Đại học. Bố mẹ tôi thành đạt như vậy nhưng gốc gác trong lý lịch là gia đình bần nông.
 
“Chẳng thơm cũng thể hoa nhài/Dẫu không thanh lịch cũng người Tràng An”, theo tôi khi xuất hiện câu ca dao này thì Hà Nội mới chỉ gói gọn trong khu phố cổ, phố Pháp.
Thưa các bạn, tôi tình cờ biết đến diễn đàn của chúng ta, thật là sôi động, mỗi người một ý, ai cũng lý luận rất hay rất lý thú. Ở diễn đàn tôi cũng thấy nhiều người nói đến người Tràng An, người Hà nội, trai gái Hà Nội, trai gái nhà quê, người nhà quê vậy thì ta hãy tìm hiểu xem họ là ai.
Thưa các bạn, cách đây chỉ 50 năm thôi, thành phố Hà Nội có 53 nghìn dân, có thể một số bạn ngạc nhiên nhưng một phần rất lớn trong số những cư dân đang sống trong các quận nội thành Hà Nội hiện nay không sinh ra tại thành phố này.
Còn nếu xét đến quê hương bản quán trong Chứng Minh Thư thì 80% - 90% là người ngoại tỉnh, vậy họ từ đâu đến? Người dân Hà nội hiện nay theo tôi là đến từ tất cả các xã trên toàn Việt nam này (xin nhấn mạnh là xã). Họ là những người dân lao động hay kinh doanh lớn nhỏ, họ cũng là trí thức, công chức, cũng có thể họ chỉ nội trợ ở nhà, họ có thể làm giám đốc ở tập đoàn tổng công ty hay họ ở trong chính phủ làm đến những chức vụ, quyền lực cao nhất.
Dù họ là ai, tôi khẳng định đa phần họ là người giỏi. Họ phải có học vấn hay giỏi kinh doanh, giỏi nắm bắt cơ hội, là những con người ưu tú, giàu có hoặc khôn ngoan nhất ở những vùng quê thì mới trụ lại được nơi Thành phố khắc nghiệt. Không có họ Hà nội sẽ không phát triển được như hôm nay.
Nhìn lại một chút cách đây vài chục năm, các khu tập thể Giảng Võ, Kim Liên cách đây 35, 40 năm thôi xung quanh toàn cánh đồng, 25-30 năm trước từ Ngã Tư Sở đi Hà Đông có 5km thì 4km hai bên đồng ruộng bát ngát. Đại lộ Nguyễn Trãi (do Liên xô giúp) cực rộng nhưng chỉ để bà con phơi thóc lúa, trên đường xe trâu, xe bò ỉa đầy đường, cả quận Thanh Xuân là một cách đồng lớn. Hiện tại Hà Đông đã là quận lớn nhất thủ đô, đối với lớp trẻ trên phố ngày xưa (cả ngày nay) thì đây đúng là khu nhà quê, hồi trước có lần tôi chát tán tỉnh với một em nhà buôn bán trên phố đã hai mấy rồi mà còn chưa xuống đến Thanh Xuân bao giờ?? Tệ quá!  
Chỉ 5-10 năm nữa thôi Hà Đông nói riêng và khu phía Tây Thành phố nói chung một Hà Nội mới, khang trang hiện đại. Tôi đã chuyển đến sống trong một khu đô thị mới ở khu vực này được quy hoạch đẹp, thoáng, văn minh, hiện đại, và mức sống cao (tiền hàng tỷ mới mua nhà được ở đây).
Ngoài một phần dân Hà nội ra thì người các tỉnh về mua chiếm đa số (khiếp thật). Sơn La, Lai Châu, Điện Biên, Lạng Sơn cho đến Ninh Bình, Thanh Hóa… đủ cả. Người ít tiền thì mua một cái căn hộ cho con lên ở, người nhiều tiền mua cả dãy nhà chia lô hay vài lô biệt thự rồi để đấy chả thèm ở, toàn các đại gia khét tiếng ở quê cả.
Còn những người ở những quận cũ HN chuyển ra ở cũng nhiều, các bác về hưu, các đôi trẻ mới cưới, có nhà còn bán nhà ở trung tâm ra mua liền 3 căn hộ giải quyết khâu chung nhà gây xung đột thế hệ (1 cái đổi được 3) đúng là chí lý và khôn ngoan.
Còn Tràng An cổ gốc ư, ngoài số ít điều kiện mặt phố hào nhoáng cửa hiệu còn bên trong là khu ổ chuột đúng nghĩa. Mọi người có thể tham khảo thêm ở đây để hiểu thêm về Hà Nội: Đến với khu phố cổ Hà Nội
Mỗi thời mỗi khác, ngày xưa không mất tiền có thể có nhà Hà Nội vì cơ quan có đất, bây giờ rất khác đó. Chỉ những nhà cực giầu ở quê mới có thể giúp con mua nhà ở Hà nội còn phần nhiều thì không. Nhiều người thu nhập tốt phải chấp nhận thuê nhà một thời gian, người thu nhập khá hoặc trung bình thì thuê nhà cả đời, và cả đời họ không mua được nhà.
Theo afamily.vn

Dẫu không thanh lịch cũng người Tràng An
Tôi trở về Hà Nội với tâm trạng của một người con xa quê, vừa với tâm trạng của một kẻ ngụ cư. Hà Nội ngày nay sao lại thế?
Tôi là người con cuối cùng trong gia đình trở về Hà Nội sau chuyến hành trình dài 40 năm của gia đình. Do một biến cố lịch sử nên sau khi tốt nghiệp đại học, bố mẹ tôi được điều chuyển công tác về tỉnh trung du, tôi được sinh ra ở đây.
Những năm tháng lớn lên, mỗi chủ nhật được theo bố về thăm quê, thăm người thân, mỗi hình ảnh đều được tôi cảm nhận về một Hà Nội rất đỗi thân thương. Ở nhà mỗi lời nói, cách đi, cách ngồi, mọi sinh hoạt đều được mẹ tôi uốn nắn cẩn thận (mẹ tôi là nữ sinh Trưng Vương mà).
Tôi trở về Hà Nội với tâm trạng của một người con xa quê, vừa với tâm trạng của một kẻ ngụ cư. Nơi tôi sống là một chung cư có rất nhiều con người từ nhiều miền quê khác nhau tập trung lại, người đến trước, người đến sau. Nơi tôi ở có rất nhiều trẻ em, những đứa trẻ sinh ra và lớn lên tại Hà Nội, những đứa trẻ có chất giọng khác với bố mẹ chúng và dĩ nhiên nền văn hóa gia đình thì không thể mất được.
Những đứa trẻ này học rất nhanh, rất thông minh và khi lớn đương nhiên là chủ nhân của một Hà Nội mới, Hà Nội có chất giọng khác với những người Hà Nội trước 1954, trước 1945, trước nữa, và khác cả văn hóa nữa.
Rất nhiều người nói rằng trẻ em ngày nay thiếu giáo dục, nhìn thấy người lớn không chào, nói năng thiếu tôn trọng. Nơi tôi ở một cô gái đứng giữa thang máy không chào ai, không nhường lối cho mọi người, ... mọi người không nói gì. Tôi dạy con tôi gặp mọi người phải chào, và hàng ngày cháu chào bác công nhân lau hành lang, chào cô nhân viên giữ xe, .... mọi người cười như một sự lạ?
Trên các báo đang nói rất nhiều về một Phố hoa Hà Nội, về văn hóa ứng xử của người Hà Nội. Vậy bao nhiêu người mang nét văn hóa của người Hà Nội, bao nhiêu người mang văn hóa vùng miền đến Hà Nội...? Câu hỏi này mỗi người sẽ tự trả lời mình là ai và từ đâu đến.
Hà Nội ngày nay sao lại thế? Vậy tại sao không tới xem bến xe phía nam và các bến xe khác những ngày giáp tết, mọi người về quê líu lo giọng nói, vui lắm.
Và Hà Nội sáng mùng một Tết là một ngày yên bình nhất trong năm, và sẽ yên bình và văn hóa hơn nữa khi những kẻ như tôi không có mặt ở Hà Nội.
Nhưng tôi biết đi đâu bây giờ!
Nguyễn Hồng Lân( Theo VnExpress.net )

Dù quê quán ở đâu, sinh sống ở đâu, hãy cư xử có văn hóa
Xã hội hiện đại thì những thành phố lớn như Hà Nội không thể tránh được hiện tượng người ngoại tỉnh đến làm việc và sinh sống ngày càng nhiều. Việc ứng xử có văn hóa hay không đâu có liên quan đến gốc gác xuất thân, chả lẽ chỉ có người Hà Nội là thanh lịch thôi sao?
Năm ngoái rất buồn khi nghe chuyện về đường hoa Hà Nội bị phá tan hoang chỉ sau có mấy ngày; trong khi vào Tp HCM, đường hoa Nguyễn Huệ từ 26 tết đến tận mùng 2 tết vẫn đẹp tuyệt vời, dù không thấy bóng một người bảo vệ nào. Mong rằng đường hoa HN năm nay sẽ được như vậy. Chúc mọi người một năm mới an khang, vui vẻ.
Mong sao mỗi người, dù quê quán ở đâu, sinh sống ở đâu, hãy cư xử có văn hóa để Hà Nội, và không chỉ Hà Nội thôi mà trên khắp đất nước ta, luôn sạch đẹp, văn minh.
( GIACAM ) ( TheoVnExpress.net )
TH st.

Thứ Ba, 28 tháng 6, 2011

Nhớ nhà thơ Lỡ bước sang ngang

Nguyễn Bính và đồng nghiệp đấu khẩu bằng thơ
Trước ngày bế giảng lớp “Văn nghệ khoá Lê Trần” (1951) ở ấp Đồng Cùng, rừng U Minh, thi sĩ Nguyễn Bính tâm tình với bạn thân Hoàng Tấn: “Mình đã ngoài 30 rồi, sống lẻ loi mãi cũng buồn, mình tính vào khoảng sau hai tháng nữa sẽ cưới vợ”.
Hoàng Tấn ớ ra, cho là “chuyện lạ kháng chiến”. Một thi sĩ đa tình, lại như bèo dạt mây trôi, từng tuyên ngôn qua hai câu thơ: “Sống là sống để mà đi/Con tàu bạn hữu, chuyến xe nhân tình” và đã có “một ngàn lẻ người yêu trong mộng”, bây giờ muốn làm chú rể! Mà cô dâu là ai đây? Hoàng Tấn liền mau mau tranh thủ kể cho anh em trong tiểu đội nghe. Thế là đêm trước ngày Tiểu đội Thơ chia tay, Hoàng Tấn, Hoàng Phố, Thanh Bình, Truy Phong, Kiên Giang, Nguyễn Hải Trừng bày mưu trêu chọc Nguyễn Bính trong cuộc chất vấn - đối thoại bằng thơ hy hữu. Nhà thơ Thanh Bình xung phong “phát pháo” mở đầu.
Nhà thơ Nguyễn Bính.
Nhà thơ Nguyễn Bính.
Thanh Bình (hỏi Nguyễn Bính): Phải chăng ông sắp tuyên hôn?
Truy Phong (bồi tiếp): Bạc tiền không có vợ con nỗi gì?Nguyễn Bính (thản nhiên): Bạc tiền không có cần chi/Miễn yêu chung thuỷ việc gì cũng xong.
Hoàng Phố: Rằng xong thì Bính dối lòng/Thuốc không có hút còn hòng cưới ai?
Nguyễn Bính (phản ứng): Các anh nghĩ thế là sai/Theo "Đời sống mới" tiền tài kể chi.
Nguyễn Hải Trừng (ở Tiểu đội Họa sang chơi, góp ý): Đứng trong thực tế mà suy/Bạc tiền không có lấy gì tiếp tân?
Nguyễn Bính (bực dọc): Đã mang tiếng bạn bè thân/Đến chơi đâu phải cầu ăn cho nhiều?
Hoàng Phố (khích bác): Bạn bè là chỗ thân yêu/Ít ra cũng phải một "heo" mới vừa.
Nguyễn Bính (trả miếng): Tưởng rằng tình bạn thiết tha/Ai ngờ lại hoá "bạn gà bạn heo"?
Hoàng Tấn (phê phán): Bính ơi xin chớ đặt điều/Bạn người ai lại bạn heo bao giờ?
Nguyễn Bính (chưa nguôi giận): Bạn người uống rượu ngâm thơ/Bạn heo nên mới đợi chờ thịt heo!
Thanh Bình (tấn công): Ông đừng vin cớ ông nghèo/Đơm chuyện đặt điều nói xấu bạn thơ.
Nguyễn Bính (đắc chí): Nào ai xuyên tạc bao giờ/Biết mình đuối lý thì ngơ cho rồi.
Hoàng Tấn (giả lả): Chuyện ăn là chuyện lôi thôi…
Hoàng Phố (lái sang chuyện khác): Nay xin gác lại hỏi chơi chuyện này/Vợ ông con cái nhà ai/Có phải lạc loài nên mới đụng ông?
Nguyễn Bính (trừng mắt): Con ai cũng có giống dòng/Lạc loài đâu phải là không ra gì?/Biết bao nhiêu phận nữ nhi/Cấm cung mà cũng thị phi tiếng đồn.
Truy Phong (đế vô): Cây có cội nước có nguồn…
Hoàng Phố(châm chọc): Lạc loài gái ắt chẳng còn tiết trinh
Nguyễn Bính (chỉ vào mọi người): Tại sao câu nệ chữ trinh/Các ông phong kiến cùng mình chẳng sai…
… Được một thời gian nghe tin Nguyễn Bính cưới một cán bộ phụ nữ tỉnh, mở sạp báo “Nhân Dân Miền Nam” ở Huyện Sử. Gần cuối kháng chiến, nghe máy bay Pháp lượn vòng từ đập đá dài theo kênh chắc băng xuống Thới Bình, rải truyền đơn kêu gọi đích danh tác giả Lỡ bước sang ngang - Nguyễn Bính “quay về với chính nghĩa Quốc gia để được trọng đãi”… Bạn bè xôn xao cho đến khi có người gặp Bính đang làm rẫy ở Hang Mai, chung sống với một phụ nữ Bến Tre vừa sinh mụn con Nguyễn Hương Mai, kế Nguyễn Hồng Cầu.
Tập kết ra Bắc, Nguyễn Bính hướng về Nam bộ, đặc biệt vùng sông nước kháng chiến chống Pháp dạt dào nỗi nhớ: “Thấy dừa lại nhớ Bến Tre/Thấy hoa sen nhớ đồng quê Tháp Mười/Thấy trăng lại nhớ đến người!”, để rồi đêm đêm ngửa mặt nhìn trời thốt lên “…Sao đặc trời cao sáng suốt đêm/Sao đêm chung sáng chẳng chia miền/Trời còn có lúc sao quên mọc/Tôi chẳng đêm nào chẳng nhớ em!” (trích Đêm sao sáng).
(Theo hồi ký Nhớ về rừng U Minh của Hoàng Tấn)
(Nguồn: Văn Nghệ TP HCM)
   TH st.

Lối sống người Hà Nội qua ba thế hệ một gia đình trí thức

Hoàng Hưng



I. Hạn định khái niệm Lối sống “Người Hà Nội” trong bài này
1/ Tôi muốn nói về lối sống một thời của “Người Hà Nội” mà người ta thường nhắc đến như “người Tràng An”, với “thanh lịch” là nét đẹp nổi bật của nó. Tôi cho đó là lối sống định hình trong giai đoạn nửa đầu thế kỷ XX, từ khi Pháp đặt xong nền móng hành chính, giáo dục của chế độ thuộc địa cho đến trước cuộc kháng chiến chống Pháp 1946-1954.
2/ Lối sống ấy hình thành trong điều kiện xã hội tương đối ổn định. Hà Nội đã thành hình rõ nét một đô thị hành chính, văn hoá, thương mại mang tính thuộc địa nhưng còn giữ được nhiều nét truyền thống và mối liên hệ chặt chẽ với các làng xã. Thành phần dân cư gồm chủ yếu là tiểu tư sản thành thị: tiểu thương tiểu chủ, công chức viên chức, sinh viên học sinh.
3/ Lối sống ấy kết tinh văn hoá “Kinh kỳ” của giới nho sĩ và thương nhân “kẻ chợ” (tập trung tại “36 phố phường”) hoà với những yếu tố của văn minh Pháp được tiếp thu bởi trí thức Tâyhọc và viên chức nhà nước bảo hộ (sự hoà hợp này diễn ra từ mỗi gia đình với sự nối tiếp của hai thế hệ).
4/ Lối sống ấy bị phá vỡ từng bước từ những năm 1960 với cuộc cải tạo tư sản và xây dựng “chủ nghĩa xã hội”, chiến tranh phá hoại của không quân Mỹ, sự phát triển hỗn loạn sau “đổi mới”, đến nay gần như đã bị thay thế bằng một lối sống hỗn tạp, còn lâu mới định hình; nhưng một số nét của nó còn in dấu bền bỉ trong những “người Hà Nội gốc” qua mọi thăng trầm.
5/ Có thể chia thành ba thời kỳ thành-trụ-hoại của lối sống ấy: (1) Cuối thế kỷ XIX-đầu TKXX là thế hệ khởi sự xây dựng nên lối sống, trong đó nếp sống truyền thống vẫn là chủ đạo. (2)Đầu thế kỷ XX-trước 1946 là thế hệ định hình lối sống, có sự cân bằng giữa những yếu tố truyền thống với những yếu tố Tây phương. (3) 1946-1975 là thế hệ níu giữ một số nét của lối sống ấy qua hai cuộc chiến. Sau 1975, đặc biệt từ khi “đổi mới”, lối sống “người Hà Nội” có thể coi như bị phá huỷ, do sự thay đổi triệt để về thành phần dân cư cùng với sự quá tải của hạ tầng đô thị (với sự áp đảo của dân mới nhập cư) và sự “thay bậc đổi ngôi” trong nội bộ dân Hà Nội (với sự giàu lên “trong một đêm” của một bộ phận dân cư). Trong khi đó, sau cuộc di dân lịch sử 1954, lối sống này được lưu giữ nhiều trong những người Hà Nội “lưu vong” (vào Sài Gòn, rồi qua Pháp, Mỹ).
6/ Lối sống ấy không chỉ toàn ưu điểm theo con mắt “hoài cổ” (cái gì đã mất bao giờ cũng đẹp); cần có cái nhìn khách quan và đối chứng (với lối sống của các đô thị như Huế, Sài Gòn cùng thời, và lối sống của người Hà Nội hiện nay) để nhận ra những hay dở của nó.
Những nhận xét trên xin được thẩm định bởi các nhà xã hội học, văn hoá học, nhân học với cáccông trình đi sâu nghiên cứu của họ.
Dưới đây tôi gợi ra một số nét mà mình được biết và trực tiếp quan sát qua thực tế đời sống ba thế hệ của gia tộc bản thân, một gia tộc trí thức ở Hà Nội trong suốt thế kỷ XX. Có thể coi đólà chút tư liệu sống cho các nhà nghiên cứu.
II. Một số nét về lối sống của gia tộc Hoàng Thuỵ ở Hà Nộiqua ba thế hệ trong suốt thế kỷ XX
1/ Thế hệ thứ nhất (sinh vào khoảng thập kỷ 1880):
Đó là thế hệ ông bà nội của tôi.
Cụ ông là Hoàng Thuỵ Chi, quê gốc thôn Phù Lưu (Chợ Giàu, nay là khu phố Phù Lưu, phường Đông Ngàn), phủ Từ Sơn (nay là thị xã Từ Sơn), Bắc Ninh, một làng đã đô thị hoá khá sớm,cách Hà Nội chỉ 19km. Đầu TK XX, trong khi làm quan Tổng đốc Bắc Giang, cụ đã bảo lãnhcho cụ bà vay tiền của Đông Dương Địa ốc Ngân hàng mua đất xây nhà ở Hà Nội. Ngôi biệt thự mang tên Villa Hoàng Thuỵ Chi ở 14 Đường Thành (rue de la Citadelle) có mặt bằng trên 1000 m2, hoàn thành năm 1926, và một dãy gồm mười mấy ngôi nhà phố kiểu Tây liền nhau ở phố Yết Kiêu (rue Bovet).
Cụ Hoàng Thuỵ Chi (người thời đó quen gọi là Cụ Tuần Chi) giỏi Hán Nôm, là cử nhân trẻ nhất khoá thi 1900 (khi mới 19 tuổi), còn để lại nhiều biên khảo về văn hoá, địa dư (được lưu giữ trong Thư viện Hán Nôm). Cụ bà nhũ danh là Nguyễn Thị Hân, con gái một ông quan tri phủ sống ở phố Hàng Đào và cháu ngoại một vị quan đại thần sống ở phố Châu Long; cụ không biết chữ quốc ngữ, chỉ huy tính toán xây nhà toàn bằng bàn tính ta.
Villa 14 Đường Thành của cụ Tuần Chi do KTS Hoàng Như Tiếp thuộc lứa KTS đầu tiên của VN thiết kế nhưng thể hiện rõ lối sống của chủ nhân: sinh hoạt tiện nghi kiểu Tây với thẩm mỹ trộn, lai Tây – Tàu: nhà 3 tầng tường bê-tông dày 40cm, bố trí phòng ốc kiểu nhà Tây, cổng trong bằng sắt trổ chữ Thọ, cổng ngoài có 2 cột mang đôi câu đối khảm mảnh sứ đỡ tấm hoành bê-tông trang trí cảnh sơn thuỷ kiểu Tàu với nhiều tượng sứ Tàu, mặt tiền nhà trang trí những miếng gốm màu hoa dây như ở Nhà Hát Lớn và các chữ triện Phúc Lộc Thọ, trong nhà có lò sưởi nhập từ Tây bằng cẩm thạch trắng, có bàn gỗ lim lớn kiểu Tây nhưng mặt bàn khảm 100 chữ Phúc Lộc Thọ các kiểu bằng đồng, có dàn cửa kính màu như trong nhà thờ Tây lại có cửa và bình phong gỗ khảm chữ nho, có bàn thờ đồ sộ sơn son thếp vàng truyền thống nhưng ảnhthờ là ảnh chụp in trên sứ, có bộ sưu tập đồ cổ bằng ngọc, sứ Tàu và trống đồng Lạc Việt...
Cụ ông cụ bà và phần lớn các con ăn vận theo nam phục, chỉ có hai người con trai lớn học đại học Y và Luật thì mặc âu phục. Gia đình giữ nghiêm nếp nho phong, đáng chú ý là uy quyềnvà vai trò “nội tướng” của bà chính thất. Cụ ông có hai bà “thiếp” (“nàng hầu”) chỉ được các con bà chính thất gọi là “cô” và tên thì gọi bằng tên làng quê của các bà (cô Xuân, cô Vẽ). Các con được đặt tên một cách nôm na theo thứ tự ra đời (Ba, Tứ, Năm, Lục…). Việc hôn nhân của các con: vợ chính thất là do cha mẹ sắp đặt, những bà sau mà các ông con trai kết duyên một cách tự do không được các cụ công nhận chính thức, có thể cùng sống ở nơi khác nhưng không được đem về nhà. Tuy nhiên con cái của các bà này, đặc biệt là con trai, lại được các cụ yêu quý và đối xử bình đẳng như các con bà chính thất.
Các cụ giữ quan hệ rất chặt chẽ với làng quê. Cụ Tuần Chi là nhà bảo trợ lớn của làng Phù Lưu, là người lát đá xanh toàn bộ đường làng, xây cổng làng, cổng đình, nhà thờ hương hiền, đồng thời xây cái lăng lớn với khuôn viên trên 3000 m2 cho gia tộc Hoàng Thuỵ kiêm luôn chức năng vườn hoa công cộng cho làng (những việc này được kể trong truyện ngắn “Làng” của nhà văn Kim Lân). Người làng ra Hà Nội nhờ cậy mọi việc đều được giúp đỡ chu đáo.
2/ Thế hệ thứ hai (sinh vào thập kỷ đầu thế kỷ XX):
Bố tôi, Hoàng Thuỵ Ba và chú ruột là Hoàng Thuỵ Năm, là thế hệ Tây học. Ông Hoàng Thuỵ Ba là một trong hai bác sĩ đầu tiên của trường Đại học Y Hà Nội (cùng với ông Đặng Vũ Lạc), hai năm cuối phải sang Pháp học để lấy bằng bác sĩ (1927), sau đó về nước làm quan chức trong ngành y tế. Ông Hoàng Thuỵ Năm học Luật, ra làm quan chức hành chính của chính quyền Bảo Đại và Ngô Đình Diệm.
Tuy theo Tây học, trong quan hệ gia đình các ông vẫn giữ nếp gia phong truyền thống. Sự nghiệp công danh không lấn át bổn phận gia đình. Chữ Hiếu vẫn là đầu mọi sự. Ông Hoàng Thuỵ Ba đang giữ một chức vụ cao trong ngành y tế kháng chiến, nhưng khi bà mẹ sốngtrong “thành” (Hà Nội tạm chiếm) ốm nặng và gọi về, ông xin phép các cấp lãnh đạo đưa con cái về lại Hà Nội đề chăm sóc mẹ (sau khi “về thành”, để tỏ rõ thái độ chính trị, ông không nhận bất cứ chức vụ nào do chính quyền Bảo Đại sẵn lòng phong tặng mà chỉ mở bệnh viện tư; năm 1954, từ chối lời mời làm Tổng trưởng Y tế trong chính phủ mới lập của ông Ngô Đình Diệm, ông ở lại Hà Nội đón “Cụ Hồ”). Năm 1955, khi mẹ qua đời ở Sài Gòn, ông đã xin phép chính phủ VNDCCH vào Nam chịu tang mẹ - một sự kiện làm xôn xao người dân Hà Nội lúc ấy (nhưng cũng lại một lần nữa ông từ chối lời mời ở lại làm việc cho chính quyền Sài Gòn để trở ra Hà Nội).
Đối với các bà vợ, nhất là bà chính thất mà cha mẹ sắp đặt cho, mặc dù không thuận, có thể ly thân, nhưng không ly hôn. Với con cái, mặc dù vợ nọ con kia, các ông luôn làm tròn bổn phận người cha là nuôi dưỡng cho ăn học, bảo đảm sự bình đẳng về mọi quyền lợi vật chất cho những người con các dòng. Tuy nhiên trong quan hệ hàng ngày, người cha luôn giữ khoảng cách, không gần gụi, hầu như không chuyện trò tâm sự với con cái, và để các con tự do đi theo con đường phát triển của chúng.
Trước biến động ghê gớm của thời cuộc, từ đỉnh cao rơi xuống, nhưng thế hệ này có khả năng thích nghi với những thay đổi căn bản của điều kiện sinh hoạt, có khả năng chan hoà có mức độ với những tầng lớp khác nhưng vẫn giữ một cách thế riêng biệt, sự kín đáo riêng tư của đời sống gia đình, bản thân. Không ai hình dung nổi một “quan đốc” (docteur) quen đi xe hơi riêng, nhảy đầm, chơi mạt chược, tiệc tùng thường xuyên, nói tiếng Tây nhiều hơn tiếng Việt lại có thể sống ở nông thôn nhiều năm trong nhà nông dân trong 2 cuộc kháng chiến, hoặc ngày ngày đi ăn “cơm đầu gánh” (“cơm bụi”) ở chợ Hàng Da trong lúc các con phải đi sơ tán khỏi Hà Nội.Cũng thế, ông có thể sống chung hoà bình suốt mấy chục năm trời với mấy chục gia đình “cánbộ” mà ông phải chia sẻ ngôi biệt thự lớn của ông cha để lại. Nhưng khi quyền sở hữu của ôngbị xâm phạm, ông lặng lẽ và kiên trì đấu tranh đến cùng để giành lại (vụ khiếu nại nổi tiếng của BS Hoàng Thuỵ Ba đòi lại 2 căn buồng cho một ông vụ trưởng Viện Kiểm sát Nhân dânTối cao mượn, kéo dài 20 năm mới giải quyết được).
Trong khi đó, ông Hoàng Thuỵ Năm cùng phần lớn thành viên gia tộc Hoàng Thuỵ vẫn giữ nếp sống cũ ở trong “thành” (Hà Nội 1946-1954) cũng như ở Sài Gòn (từ 1954). Khi sang châu Âu, tôi có nhận xét nếp sống này được duy trì một cách đáng kinh ngạc ở các thế hệ con cháu sống ở Pháp, Thuỵ Sĩ, Anh.
Tuy đi theo hai con đường chính trị khác nhau, điểm chung nhất ở hai ông là tình nghĩa gia đình. Dựa vào tình cảm này, chính quyền Hà Nội giao cho BS Hoàng Thuỵ Ba làm trưởngban đấu tranh thống nhất của HĐND thành phố, đề nghị ông thường xuyên viết thư thăm hỏingười em ở Sài Gòn thông qua phái đoàn quốc tế kiểm soát đình chiến (lúc đó ông Hoàng Thuỵ Năm làm trưởng đoàn liên lạc của chính quyền Sài Gòn tại Uỷ ban Kiểm soát). Cũng có thể nhận thấy một điểm chung khác là sự thanh bạch, chính trực (qua lời ông Trần Bạch Đằng kể về ông Năm trong cuốn “Ván bài lật ngửa), và uy tín xã hội của hai ông (qua đám tang của BS Hoàng Thuỵ Ba năm 1994 ở Hà Nội và đám tang Đại tá Hoàng Thuỵ Năm năm 1961 ở SàiGòn).
3/ Thế hệ thứ ba (sinh vào những năm 1930-1940):
Là thế hệ chúng tôi, những học sinh trung hoặc tiểu học thời Hà Nội tạm chiếm, tiếp thu nền giáo dục của “nhà trường xã hội chủ nghĩa” sau 1954; khi vào đời phải xa Hà Nội trong suốt thời kỳ chiến tranh phá hoại của không quân Mỹ (1965-1973), trở về Hà Nội và trở thành chủ gia đình ít lâu trước hoặc sau cuộc chiến. Trong thế hệ này, gia tộc Hoàng Thuỵ có một số têntuổi như PGSTS Y khoa Hoàng Văn Sơn, Tổng thư ký Hội Sinh hoá Việt Nam; GSTS Y khoa Hoàng Văn Minh ngành lao - bệnh phổi; 1 nhà thơ – dịch giả.
Có thể nói, lối sống của thế hệ “người Hà Nội” này bị biến chất, pha tạp rất nhiều do hoàn cảnh xã hội, chịu tác động của ba yếu tố lớn nhất là: lối sống tập thể (quân đội, bệnh viện,trường học là những nơi họ làm việc và sống trong khu tập thể), lối sống thời chiến và lối sống tiểu nông (do về nông thôn sống trong thời chiến). Tuy nhiên, họ còn lưu giữ, tuỳ mức độ theo hoàn cảnh và bản tính từng người, một số nét của “người Hà Nội xưa” mà họ được thấm nhuần trong thời thơ ấu qua giáo dục của nhà trường và gia đình. Họ cố gắng hoà đồng với lối sống của các đồng nghiệp có gốc từ nhiều địa phương khác nhau, nhưng vẫn nổi bật trong đó với những ứng xử văn hoá tinh tế hơn, ngược lại thường bị xem là khép kín hơn, “mở cửa sổnhưng cửa ra vào thì đóng kín”. “Thiếu chan hoà với quần chúng” là khuyết điểm phổ biến mà tập thể thường phê bình họ.
III. Thử nêu vài đặc điểm của lối sống “Người Hà Nội”
Như trên đã nói, xin coi đây là những quan sát từ người trong gia tộc, bạn bè và người quen củagia đình, có nghĩa là hết sức chủ quan, phiến diện.
1/ Coi trọng đời sống gia đình. Một gia đình yên ổn, nền nếp, có trên có dưới, có tình có nghĩa. Khó hy sinh gia đình cho sự nghiệp, lý tưởng. Cũng không hy sinh gia đình cho những thú vui bản năng (“vợ cái con cột” bao giờ cũng ở trên “vợ lẽ con thêm”). Không muốn ai nhòm ngó vào chuyện riêng tư của gia đình mình (“đèn nhà ai nhà nấy rạng”). Cũng dễ trở thành ích kỷ, chỉ biết ôm lấy vợ con.
2/ Có ý thức mạnh mẽ về lợi ích cá nhân, quyền tư hữu, không dễ để người khác xâm phạm, dễ bị coi là “khoảnh”, tính toán, nhưng cũng không thích xâm phạm lợi ích người khác, sòng phẳng, rạch ròi (“yêu nhau rào giậu cho kín”). Có thể giúp đỡ người khác nhưng có mức độ, không muốn bị làm phiền, khó “sẻ nhà sẻ cửa”. (Lưu ý: trong những hoàn cảnh đột xuất như cách mạng, kháng chiến, “người Hà Nội” đã vượt lên trên lối sống ngày thường, sẵn sàng hy sinh gia tài và cả tính mạng cho đại nghĩa. Một thí dụ: Trong kháng chiến chống Pháp, BS Hoàng Thuỵ Ba đem vàng của gia đình mua lương thực cho học sinh trường nữ hộ sinh ởThanh Hoá mà ông làm hiệu trưởng).
3/ Coi trọng tự do cá nhân của mình cũng như của người. Trong quan hệ ngoài gia đình như bà con, bè bạn, đồng nghiệp, hàng xóm… giữ giới hạn ở mức phải chăng, “thoang thoảng hoa nhài”. Ngại tranh chấp, đối đầu, “dĩ hoà vi quý”. Dễ bị xem là “khôn ngoan”, dễ trở thành ba phải, “hoà cả làng”.
4/ Lịch sự, tế nhị trong giao tiếp xã hội, cả về ăn vận lẫn lời ăn tiếng nói. Ghét sự thô thiển, lố bịch, trắng trợn. Ngại “nói toạc móng heo”. Chỉ muốn làm người tử tế, biết điều, không phải người “chịu chơi”, không thật nhiệt tình, hồ hởi, hào sảng. Dễ bị coi là giữ kẽ, khách sáo, cũngdễ trở thành màu mè giả tạo.
5/ Không chỉ cắm cúi làm việc mà biết hưởng thụ cuộc sống, và hưởng thụ một cách hào hoa, thanh nhã, có chừng mực, không mê đắm, sa đà hay “sả láng”.
6/ Tôn trọng nền nếp có sẵn: gia phong, luật lệ, quy ước xã hội. Có thể thích nghi với sự thayđổi chứ không chủ động tạo nên thay đổi. Hầu như không có máu phá phách, “nổi loạn”.
7/ Trọng danh dự, trọng chữ “tín” trong các quan hệ. Tự trọng trong công việc, có lương tâmnghề nghiệp. Có thể kiên nhẫn để vươn lên hoặc khôi phục quyền lợi, điạ vị bị mất một cách từ tốn. Không thích mạo hiểm hay thành công bằng mọi giá. Không nuôi chí lớn, không có mưu sâu.
8/ Trung dung, một vừa hai phải. Ôn hoà, không cực đoan hay quyết liệt. Lý trí mạnh hơn tình cảm. Tư duy lô-gích mạnh hơn trực cảm, bản năng.
Nhìn chung, lối sống “người Hà Nội” hợp với thời kỳ xã hội yên bình, ổn định, với loại người làm ăn hay học hành trong những điều kiện bảo đảm, có mức sống dễ chịu, có thể nói là lối sống điển hình của lớp trung lưu một thời quen được gọi là “tiểu tư sản thành thị”, hỗn danh là “tạch tạch xè”!


Đô ĐH st

Thứ Hai, 27 tháng 6, 2011

GẶP MẶT

Ngày 24/6 /2011 Hội nguyentraik22 TPHCM có tổ chức gặp mặt bạn Thu Hòa 10B. Cũng trong ngày họp mặt có thêm anh chàng Nguyễn Phương 10E . Tay này trước là lớp phó của lớp. Hắn ta sống ở Vũng tàu và Côn Đảo. Hắn hứa sẽ gủi nhiều hình ảnh tự chụp cho blog. Dân nhiếp ảnh tự do mà! Gủi các bạn xem một số hình ảnh của buổi gặp mặt.





HỘI NGỘ








Hoc 10H ; Phương 10E ; Trường Sơn 10E ; Hồng Thanh 10B






Hòa ‘’Tôm’’ 10B ; Thành 10D ; Học 10H; Phương 10E



Thanh ,Thuần,Hòa (10B ) và Vinh 10H





Diệu và Nguyễn Phương 10E





CHUYẾN THĂM ĐỊA ĐẠO CỦ CHI


CỦA CÁC CỰU NỮ SINH





"Hạ cánh" trước địa đạo Củ Chi





Rửa tay trước khi ăn khoai mì nấu từ bếp Hoàng Cầm ở địa đạo Củ chi



Chụp ảnh chung với các nữ du kích Củ Chi



Phóng viên SG

Hoa đẹp trong nhà


Đố các bạn 9H+10G K22 nhận ra ai đây?
Gửi tặng các bạn vài chùm hoa đẹp trong nhà . Ai có ảnh đẹp thì gửi lên Blog nhé:

Thứ Bảy, 25 tháng 6, 2011

Chuyện tình chim yến làm rơi lệ hàng triệu con người

Một tờ báo tại Pháp sau khi mua lại và đăng tải những bức ảnh cảm động về tình yêu sinh tử của một đôi chim tiểu yến tử, đã tiêu thụ hết sạch lượng báo xuất bản trong thời gian ngắn nhất.








Những bức ảnh được một nhiếp ảnh gia vô tình chộp lại trên đường, đã tường thuật lại câu chuyện tình li biệt cảm động của đôi chim yến: “cô gái” lúc đó ven theo đường cái, lượn vòng sát mặt đường thì đâm phải một chiếc ô tô đang lao tới. “Cô gái” bị thương, tình hình vô cùng nguy cấp… “Chàng trai” từ đâu bay đến mang thức ăn kiếm được cho “người yêu” như để an ủi “cô ấy”.







Lúc “chàng trai” bay đi kiếm mồi lần nữa trở về thì phát hiện “cô gái” đã chết. “Chàng trai” dường như muốn gọi “cô gái” thức dậy, cố gắng hết sức để gọi “cô gái” dậy. Khi “chàng trai” phát hiện cô gái thật sự đã chết và không thể trở về bên mình, nó đã ngửa mặt lên trời kêu khóc. “Chàng trai” cứ đứng mãi đó bên cạnh “cô gái”, cả thế giới như lắng đọng. “Chàng trai” đau khổ, tuyệt vọng đứng mãi bên xác “người yêu”…









Một câu chuyện tình giản đơn nhường vậy nhưng đã lấy đi nước mắt của hàng triệu người khi chứng kiến nó qua những bức ảnh. Không biết nhiều người có còn cho rằng “động vật không có trí não và tình cảm” hay không?


Ba Tỉnh (theo vuonraulochung)



Thu NV st

Thứ Năm, 23 tháng 6, 2011

TẢN MẠN THỜI TÔI SỐNG

Nguyễn Trọng Tạo

1.
Những bông hoa vẫn cứ nở đúng mùa
Như thời đã đi qua, như thời rồi sẽ đến
Nhưng cái thời tôi sống hẳn khác xưa
Trong bài hát thêm bom rơi, và súng

Anh yêu em anh phải đi ra trận
Vợ yêu chồng biết chờ đợi, nuôi con
Đất yêu người đất nhận làm lá chắn
Hai mươi năm không nguôi lửa chiến trường

Hai mươi năm không ngày nào vắng người chết đạn
Khăn tang bay người sống trắng mái đầu
Đâu cũng gặp những nghĩa trang liệt sĩ
Chiến tranh chấm dứt rồi mà nào dễ tin đâu!

2.
Những bông hoa vẫn cứ nở đúng mùa
Nhưng màu hoa thời tôi thì có khác
Xe đến công trường bay mù bụi cát
Màu hoa thường lấm bụi suốt mùa khô

Lúa ngậm đòng lụt bão đến xô bồ
Nhà đang dựng thiếu xi măng, thiếu gạch
Bao đám cưới chưa có phòng hạnh phúc
Mây ngổn ngang lam lũ những dáng người

Anh nhớ em nhớ về phía cuối trời
Nơi đất mới khai hoang chân em dầm trong đất
Em nhớ anh nhớ về nơi bóng giặc
Cứ rập rình bên cột mốc đêm đêm

Gió thầm thào như chẳng thể nguôi yên
Gạo thịt cửa hàng nhiều khi không đủ bán
Con phe sục khắp ga tàu bến cảng
Giá chợ đen ngoảnh mặt với đồng lương…

Có bao người ước cuộc sống bình thường
Như một thuở xa xôi mình đã có
Thuở miếng ăn không phải bàn đến nữa
Thuở chiến tranh chưa chạm ngõ nhà mình

Có bao người bạc bẽo với quê hương
Thả số phận bập bềnh vào biển tối
Thời tôi sống có bao nhiêu câu hỏi
Câu trả lời thật không dễ dàng chi!...

3.
Những bông hoa vẫn cứ nở đúng mùa
Chỉ vết thương rồi thời gian làm sẹo
Vầng trăng mọc vào thơ mỗi ngày dường đổi mới
Người lo toan vầng trăng chẳng yên tròn

Tôi sống thời không thể đứng quay lưng
Bao biến động dễ đâu nhìn thấy được
Bờ thẳng hơn những cánh đồng hợp tác
Đê sông Hồng sau màu lũ thêm cao

Tàu ngoài khơi vừa phát hiện mỏ dầu
Đập thủy điện sông Đà đang xây móng
Tờ báo đẫm mồ hôi bỗng sáng dòng tin ngắn:
“Nhà máy giấy Bãi Bằng vừa ra mẻ đầu tiên”

Thời đã qua sẽ chẳng khỏi ngạc nhiên
Nếu trở lại bây giờ vẫn quần nâu dạo phố
Thời tôi sống cả đến bầy em nhỏ
Diện quần bò nhảy theo điệu nhạc vui…

Đài thêm nhiều những bài hát yêu nhau
Những điệu múa ba-lê hồng hào thêm sân khấu
Cái mới đến ngỡ ngàng rồi nhập cuộc
Báo bớt trang báo thêm chút thơ tình

Thơ chưa hay thì thơ nói thật lòng
Ai giả dối rồi biết mình lầm lỗi
Thời tôi sống có bao nhiêu câu hỏi
Câu trả lời thật không dễ dàng chi!...

4.
Khi đang đắm yêu nào tin được bao giờ
Rồi một ngày người yêu ta đổi dạ
Rồi một ngày thần tượng ta tan vỡ
Bạn bè thân thọc súng ở bên sườn

Sau cái bắt tay xòe một lưỡi dao găm
Kẻ tình nguyện giữ nhà muốn chiếm nhà ta ở
Tấm ảnh Mao treo lẫn màu cờ đỏ
Tay ta treo đâu nghĩ có một lần!...

Như con chiên sùng đạo chợt bàng hoàng
Nhận ra Chúa chỉ ghép bằng đất đá
Thời tôi sống thêm một lần súng nổ
Trái tim đau rỏ máu dọc biên thùy…

5.
Rồi thời gian qua đi rồi tuổi trẻ qua đi
Ai sau tôi ở vào thời sắp đến
Thời không còn khổ đau thời không còn nghèo túng
Đọc thơ tôi xin bạn chớ chau mày.

Bạn hãy quên đi vất vả những hàng ngày
Bao lo lắng đời thường từng làm tuổi xanh ta bạc tóc
Chỉ Hy vọng và Niềm tin giúp ta thêm sức lực
Câu thơ này xin bạn nhớ giùm cho:

Những bông hoa vẫn cứ nở đúng mùa!...

Hà Nội, tháng 6.1981

Thứ Tư, 22 tháng 6, 2011

NHỮNG NGÀY NGHỈ HỌC

Nhân ngày sinh của nhà thơ Tế Hanh 20.6, Mình gửi Blog bài thơ „Những Ngày Nghỉ Học“ của Ông mà mình thấy „thấm thía“ từ hồi học ĐHBK-HN, mỗi khi hè đến, phải chia tay các bạn với „Tâm hồn ngơ ngẩn nhớ muôn phương“.


Những Ngày Nghỉ Học (1938)

Tế Hanh (20.6.1921 – 2009)

Những ngày nghỉ học tôi hay tới
Đón chuyến tầu đi đến những ga…
Tôi đứng bơ vơ xem tiễn biệt,
Lòng buồn đau xót nỗi chia xa.
Tôi thấy lòng thương những chiếc tầu
Ngàn đời không đủ sức đi mau
Có chi vương víu trong hơi máy,
Mấy chiếc toa đầy nặng khổ đau.
Bánh nghiến lăn lăn quá nặng nề!
Khói phì như nghẹn nỗi đau tê;
Lâu lâu còi rúc nghe rền rĩ;
Lòng của người đi réo kẻ về.
Kẻ về không nói bước vương vương…
Thương nhớ lan xa mấy dặm trường.
Lẽo đẽo tôi về theo bước họ
Tâm hồn ngơ ngẩn nhớ muôn phương.

Thứ Ba, 21 tháng 6, 2011

Người con gái "Sông Ngọc" và nhà thơ họ "Lưu"

Em sang bên kia sông








Tháng Tư23
Em sang bên kia sông
những ngày mưa dằng dặc
hạt cốm xanh như ngọc
se dần trong lá sen.

Có muộn lắm không em
ngày qua không trở lại
bên kia vùng Thạch Bàn
trong mưa và trong khói
những ngả đường lầy lội
em đi em nghĩ gì ?

Đã qua cả mùa hè
chờ em, em chẳng tới
hết mùa thu ngắn ngủi
bây giờ đông đã sang.

Trách chi lòng em quên
điều anh chưa nói được
một tình yêu vô vọng
có giúp gì em không ?

Sớm nay em sang sông
guốc mòn trên vũng lội
em bao giờ cũng vội
mưa đầy trời thế kia.

Gió bấc đã tràn về
em có mang áo ấm
mưa loang tờ giấy mỏng
có nhắc gì đến anh ?

Em đi xuống Bát Tràng
nhìn lò nung lửa thắm
lòng anh như men rạn
vỡ trên bình gốm nâu
đường trơn em hay vấp.

Đừng trách anh nhắc nhiều…
nếu thấy chẳng cần nhau
lời anh, đừng nhớ lại
nhưng nếu lòng thương yêu
đừng quên anh vẫn đợi.

Vừa mong vừa sợ hãi
gặp nhau, rồi ra sao ?
lá sấu rụng rào rào
nước dâng đồng bãi ngập
cầu đông, chiều tối lạnh
biết em về kịp không ?

Tác giả: Lưu Quang Vũ
TH st.

Thứ Hai, 20 tháng 6, 2011

"TIẾNG THU" của LƯU TRỌNG LƯ

Trần Đăng Khoa

Nhân kỷ niệm 100 nămngày sinh nhà thơ Lưu Trọng Lư (19/6/1911 - 19/6/2011)







Em không nghe mùa thu
Dưới trăng mờ thổn thức?
Em không nghe rạo rực
Hình ảnh kẻ chinh phu
Trong lòng người cô phụ...
Lưu Trọng Lư là nhà thơ tiên phong của phong trào Thơ mới. Nhận định về nghệ thuật thơ ông, nhà phê bình thiên tài Hoài Thanh đã có những nhận xét thật chuẩn xác: "Tôi biết có kẻ trách Lư cẩu thả, lười biếng, không biết chọn chữ, không chịu khó gọt giũa câu thơ. Nhưng Lư có làm thơ đâu, Lư chỉ để lòng mình tràn lan trên mặt giấy".
Nhận định này dường như đã thành nỗi ám ảnh. Và rồi suốt đời, Lưu Trọng Lư cứ loạng choạng, cứ bập bõm bước trong cái vòng kim cô mà Hoài Thanh đã tiên đoán và vạch ra ngay từ khi ông mới xuất hiện trên thi đàn. Còn về con người Lưu Trọng Lư, thiết tưởng cũng chẳng có ai hiểu ông hơn Hoài Thanh: "Cả đời Lư cũng là một bài thơ. Nếu quả như người ta vẫn nói, thi sĩ là một kẻ ngơ ngơ ngác ngác, chân bước chập chững trên đường đời, thì có lẽ Lư thi sĩ hơn ai hết".
Quả đúng vậy. Và nếu chọn một bài thơ thơ nhất của Việt Nam, nghĩa là ngoài thơ ra, nó không có gì bấu víu, thì đó chính là Tiếng thu. Đây là bài hay nhất trong đời thơ Lưu Trọng Lư, cũng là bài thơ thơ nhất của thi ca Việt Nam hiện đại:
Em không nghe mùa thu
Dưới trăng mờ thổn thức?
Em không nghe rạo rực
Hình ảnh kẻ chinh phu
Trong lòng người cô phụ
Em không nghe rừng thu
Lá thu kêu xào xạc
Con nai vàng ngơ ngác
Đạo trên lá vàng khô...
Bài thơ vẻn vẹn có 9 câu, chia làm ba đoạn, mỗi đoạn lại so le, các ý trong bài thơ rời rạc, khấp khểnh, chẳng ý nào ăn nhập với ý nào. Nếu cứ theo cách hiểu máy móc của những nhà phê bình quen thói bắt bẻ, cứ đè thơ ra mà tìm tư tưởng, tìm ý nghĩa thì đây là bài thơ "đầu Ngô mình Sở". Đã thế, tác giả còn tỏ ra vụng về. Tỳ vết của sự thô vụng ấy nằm trong hai câu chẳng thơ tý nào, nó như câu văn xuôi bình giảng văn học của học sinh phổ thông:
Hình ảnh kẻ chinh phu
Trong lòng người cô phụ
Ấy vậy mà khi gộp tất cả lại, nằm trong một tổng thể, bài thơ hay đến lạ lùng. Người ta không còn thấy dấu vết thô vụng đâu nữa. Đây là điều duy nhất xảy ra ở văn học Việt Nam và chỉ xảy ra có một lần. Cái hay của bài thơ này không nằm ở câu chữ. Nó hoàn toàn siêu thoát, là cái hồn phảng phất đâu đó đằng sau những con chữ rất sáng tỏ mà lại vời vợi mông lung kia. Người ta chỉ cảm thấy được, chứ không thể nói ra được một cách rạch ròi. Đây là bức tranh thiên nhiên được vẽ bằng hồn, bằng cả điệu nhạc rất riêng của tâm hồn thi sĩ. Bởi nó, chứ không thể ngắm nó bằng lý trí tỉnh táo. Đã không ít nhà phê bình nghiên cứu mang lý trí ra để làm con dao cùn mổ xẻ những con chữ rất ngơ ngác này. Có người còn viện đến cả thi pháp học để cố hiểu cho bằng được bài thơ, lấy thi pháp làm chìa khoá mở cánh cửa thực dụng, đi vào cõi mù mờ tâm linh này. Bằng cách vận dụng thi pháp, có người cho đây là bài thơ nói về nỗi cô đơn không có sự chia sẻ. Không phải ngẫu nhiên bài thơ có 9 câu mà đã có đến 3 câu điệp "Em không nghe":
Em không nghe mùa thu
...
Em không nghe rạo rực
...
Em không nghe rừng thu...

Em không nghe, còn anh thì nghe thấy hết. Nghe thấy hết mà không nói ra được. Đây là cuộc đối thoại mà kẻ đối thoại lại ẩn sau sự câm lặng. Hoặc giả em cũng đã nghe thấy, nhưng anh vẫn hỏi như vậy, nghĩa là anh không hiểu em. Đằng nào thì cũng vẫn cứ là thiếu niềm đồng cảm. Một bên thì thổn thức, rạo rực, kêu xào xác, một bên thì không nghe, không nghe, không nghe, cả con nai ngơ ngác, đạp trên lá vàng khô, nghĩa là nó cũng không nghe nốt. Hiểu một cách sống sít như thế thì thật thô thiển. Nhà phê bình đã kéo những đám mây ngũ sắc đang bay bảng lảng trong không trung, rồi rải xuống đường làm rơm rạ lót chân, và như thế còn đâu cánh rừng thu, tâm hồn thu cho con nai vàng trú ngụ. Mấy câu điệp khúc ấy thực chất chỉ để tạo giai điệu rất đặc biệt cho bài thơ này. Ở đây, nhạc điệu cũng là một phần nội dung chính làm nên hồn vía bài thơ còn ở góc độ khác, cũng nhìn bằng com mắt lý trí, có người còn cho rằng đây là bài thơ Lưu Trọng Lư thâu cóp của nước ngoài. Thực tế trong bếp núc sáng tác, có thể có sự trùng hợp ngẫu nhiên. Người bình luận còn viện cớ rằng: "Thực tế Việt Nam làm gì có khu rừng vàng. Đấy là rừng châu Âu. Rừng Việt Nam là rừng luốm nhuốm". Mùa thu Việt Nam đúng như Nguyễn Du mô tả trong Kiều: "Rừng thu từng biếc chen hồng". Và con nai Việt Nam cũng nhanh nhẹn lắm, tinh ranh lắm, nó đâu có ngơ ngác "đạp trên lá vàng khô"! Ơ hay, Lưu Trọng Lư có nhìn thiên nhiên bằng con mắt thịt đâu! Lại phải mời Hoài Thanh về làm luật sư bào chữa cho ông thôi: "Trong thơ Lư, nếu có cả chim kêu, hoa nở, ta cũng chớ tin. Hay ta hãy tin rằng tiếng ấy, màu kia chỉ có ở trong mộng. Mộng! Đó mới là quê hương của Lư. Thế giới thực của ta với bao nhiêu thanh sắc huy hoàng, Lư không nghe thấy gì đâu. Sống ở thế kỷ 20, ngày ngày nện gót trên các con đường Hà Nội mà người cứ mơ màng thấy mình gò ngựa ở những chốn xa xăm nào".
Tương truyền khi viết bài thơ này, Lưu Trọng Lư đến thăm nhà một người bạn. Rồi nhân cớ thấy cái bình gốm cổ có vẽ con nai đứng giữa núi non, Lưu Trọng Lư bèn vịnh ngay bài thơ này. Thực chất, nếu chuyện đó là thật, thì con nai trên bình gốm chỉ là cái cớ rất nhỏ, là tiếng động rất nhỏ đánh thức con nai vàng và khu rừng vàng trong tâm hồn đánh thức con nai vàng và khu rừng vàng trong tâm hồn Lưu Trọng Lư thức dậy và toả hương. Nhờ thế, thi ca Việt Nam đã có một kiệt tác thật hiếm có, ngỡ như đó là khúc nhạc huyền bí của thần linh, chứ quyết không phải là tiếng ca phàm tục của người đời...




Thu Hoàng st

Chủ Nhật, 19 tháng 6, 2011

Duyên nợ


.









Ảnh ST


Duyên nợ…

Trời cho mình một chữ duyên
Nâng niu, gìn giữ bao niên vẫn hồng
Bây giờ ngấp nghé vai ông
Nụ cười ánh mắt vẫn nồng hương xưa

Chung nhau quãng nắng, quãng mưa
Khi dìu dặt lối, khi thưa thớt lời
Chén tình chưa lúc nào vơi
Sắp về bên núi vẫn cười cợt… vui!!

Chút danh, chút lợi… kệ thôi!!
Chữ duyên, chữ nợ một đời mang theo
Chung vai gồng gánh phận nghèo
Mà vẫn tiêng tiếc kiếp bèo ngắn ghê…

18/06/2011
Thu Phong



Về Đầu Trang

Thứ Bảy, 18 tháng 6, 2011

TRUYỀN THUYẾT HOA MƯỜI GIỜ

Mình cũng rất thích hoa Tigôn và hoa 10 giờ giống bạn Trần Bách Thảo. Để tiếp nối bài thơ „Hai Sắc Hoa Tigôn“, xin gửi các bạn bài „Truyền Thuyết Hoa Mười Giờ“




Truỵện kể rằng ở một đất nước nọ, quanh năm chỉ có mùa đông băng giá, người đời không hề biết tới sư tồn tại của một ngôi làng nhỏ bé, nơi tràn ngập ánh nắng và qui tụ tất cả các loại hoa đẹp trên đời. Đó cũng là nơi yên tĩnh nhất và thơ mộng nhất trên thế gian. Trưởng làng là một người đàn bà góa chồng, 1 mình nuôi dưỡng đứa con trai độc nhất.
Thời gian cứ thế trôi đi, thằng bé năm nào còn nằm trong nôi nay đã to khoẻ và tuấn tú lạ thường. Kế thừa bản tính nhân hậu của người mẹ, hắn thường hay giúp đỡ dân làng trong những việc nặng nhọc nên rất được mọi người quí mến, nhà nào có con gái đến tuổi lấy chồng cũng ước ao con mình được lấy hắn về làm rể.

Rồi ngày đó cũng tới, trái tim của cậu bé bắt đầu biết rung động : phải hắn đã yêu. Trai tài gái sắc, người con gái có một vẻ đẹp thuần khiết khiến ai ai cũng ngưỡng mộ. Ban ngày 2 người nắm tay nhau tản bộ trên bờ biển hoặc dong duổi trên những ngọn đồi phủ đầy cỏ xanh, đi xuyên qua những bóng cây cổ thụ râm mát. Buổi trưa họ trải mình trên tấm nệm cỏ. Xế chiều họ cùng nhau nô đùa trên bãi cát trắng cho tới chiều tối. Cô gái mồ côi cha mẹ từ bé nên chỉ có người con trai là người thân duy nhất nên dành trọn tất cả tình cảm vào thằng bé. Ngược lại cậu trai còn người mẹ già nên thường phải về nhà trước khi mặt trời lặn. Cô gái lại phải chờ tới sáng hôm sau để được gặp chàng trai.

Ngày này qua ngày khác, cứ đúng 10 giờ hai người hẹn nhau, tay trong tay vui đùa trước biển xanh. Tình yêu của họ tưởng chừng không gì có thể chia rẽ được. Nhưng một ngày nọ chàng trai không tới chỗ hẹn, cô gái đứng đợi, lâu rất lâu nhưng vẫn không thấy bóng dáng của người con trai.

Rồi thời gian trôi qua, cô đã chờ được 1 ngày nhưng vẫn không thấy hắn đâu, ngay lúc đó, người con gái tưởng chừng như bầu trời muốn sụp đổ. Cô muốn òa khóc nhưng sợ rằng người con trai tới nơi thấy đôi mắt đỏ hoe của mình sẽ buồn và lo lắng nên cô nuốt những giọt nước mắt đó vào trong lòng.

Thời gian lại trôi qua cô gái đã chờ được 1 tuần, cô muốn chạy đi tìm chàng trai nhưng sợ hắn sẽ tới và không thấy cô đâu rồi sẽ bỏ đi. Nghĩ vậy nên cô ghìm bước chân lại và tiếp tục chờ. Cho tới khi sức lực cạn kiệt cô gái quị xuống và trút hơi thở cuối cùng, trước khi chết cô không hề oán hận người con trai mà chỉ tự trách tình yêu của mình dành cho người con trai không đủ để tiếp sức cho cô ta tiếp tục chờ đợi và hy vọng.

Sau này xác của cô gái được sóng mang ra giữa biển và chìm vào trong lòng của đại dương. Nơi người con gái ngã xuống mọc lên 1 loài hoa màu tím, cứ khi chuông đổ 10h là hoa lại nở rộ, từng cánh hoa một hứng lấy những hạt nắng của mặt trời để sưởi ấm cho những giọt nước mắt chất chứa trong lòng của người con gái. Người ta ví hoa 10 giờ chính là hiện thân của cô gái si tình đó, hoa nở tượng trưng cho lời hẹn ước năm nào của cô đối với chàng trai; Dù thời gian có trôi đi nhưng lời hứa của cô không hề phai tàn, cô vẫn tin vào 1 câu hẹn ước và vẫn tiếp tục đợi cho dù người con trai đó sẽ không bao giờ tới.

Vũ Ngọc Dung st

BÀI CA VỀ NĂM THÁNG

Robe Rodextvenxky

Chẳng việc gì tôi phải sợ mùa đông
Cứ mặc đầu tôi bạc trắng
Năm tháng của tôi
        Không chỉ là gánh nặng
Năm tháng của tôi
        Là gia tài của tôi!

Tôi nhiều lần vội vã với thời gian
Gì cũng muốn lao vào làm hết thảy
Ừ, tôi muốn không giàu lên vì vậy
Những năm tháng đời tôi
        Là gia tài của tôi!

Xin cảm những năm tháng của đời
Dù lắm lúc đời đắng cay, tệ bạc,
Nhưng tôi giữ,
        Không nhường cho người khác
Năm tháng của tôi
        Gia tài của tôi!

Nếu thời gian sẽ bảo một ngày kia:
“Ngôi sao của anh, than ôi, đã tắt…”
Tay trẻ thơ sẽ giơ cao, giữ chặt
Năm tháng của tôi
        Gia tài của tôi!




Bàng HS st