Nhân năm mới, xin trân trọng giới thiệu với mọi người một nét văn hóa làng quê tôi
Làng Quỳnh, ngôi làng nhỏ chưa đầy 1km2 thuộc huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An, nổi tiếng giỏi thơ ca.
BàngHS
Làng Quỳnh, ngôi làng nhỏ chưa đầy 1km2 thuộc huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An, nổi tiếng giỏi thơ ca.
Từ những trí thức thành danh cho đến những người nông dân quanh năm chân lấm tay bùn, hầu như ai cũng có thể làm ra những vần thơ dí dỏm. Đó là một ngôi làng khá đặc biệt: Làng làm thơ trào phúng.
Những “vua thơ con cóc”
Lối về Làng Quỳnh. |
"Nhà thơ con cóc" Hồ Đức Vấn. |
Thấy người dân trong làng quá ham rượu chè, ông Vấn đã làm bài thơ "Rượu" đầy tâm huyết: "Uống cho đổ quán xiêu đình/ Cho bụng cổ trướng, cho mình lên mây/... Nghĩa trang còn đợi nấm mồ/ Ba bốn chục tuổi bỏ bồ mà đi/ Cho đi thời cũng nằm lì/ Ma men mai phục đợi kỳ phát sinh/ Đợi ngày là cắc tùng rinh/ Kệ cha, mặc mẹ, khổ tình vợ con". Hiện nay, ông Vấn đang chuẩn bị in cuốn sách hơn 160 trang, trong đó chủ yếu là thơ có nhan đề "Quê hương tôi và tôi".
Nói về thơ trào phúng, thơ nghịch làng Quỳnh, ít ai trong làng nhớ được nhiều bài thơ như ông Hồ Đình Hợi. Là một người yêu thơ, từ thuở mới lớn, vì nhà nghèo không có điều kiện mua sách nên ông Hợi mượn các tập thơ hay của các cụ trong làng rồi tự tay chép lại, trong đó có cả Truyện Kiều, Chinh phụ ngâm.
Ông Hợi kể, xưa có ông Dương Tri Tản vốn học giỏi nhưng không thích thi cử, có biệt tài xuất khẩu thành thơ. Có lần, bạn đến chơi nhà đố ông vịnh cái điếu bát, ngay lập tức ông Tản đọc thơ: "Eo lưng, thắt giải thật là xinh/ Điếu ai hơn nữa điếu cô mình/ Thoắt châm, thoắt bén duyên hương lửa/ Càng nói càng say nỗi tính tình".
Còn riêng nói về tài làm thơ nghịch, theo ông Hợi, không ai qua tài ông Nguyễn Bá Du ở thôn 3. Ông Hợi kể: "Thời còn Hợp tác xã, địa phương phát động phong trào lên miền núi xây dựng kinh tế mới, biết được nhiều cảnh cơ cực lâm vào bước đường cùng, ông Du làm mấy câu thơ: "Nông trang, nông trại/ đứa mô ngu dại/ thì đi nông trang/ xa xóm, xa làng/ xa quê hương mãi...". Thơ đến tai chính quyền địa phương. Ông Du bị triệu tập lên làm tường trình, vì dám làm thơ châm chọc chủ trương của chính quyền xã. Lúc đó ông Du mới cãi: "Chắc ai đó bịa ra chứ tôi đâu dám làm thơ nghịch như thế.
Nguyên văn bài của tôi là: "Nông trang, nông trại/ Thắm tình An- Ngãi (tỉnh Nghệ An kết nghĩa với tỉnh An Ngãi (cũ)/ thì đi nông trang/ có xóm có làng/ có quê hương mới/ cán bộ lui tới/ Chính phủ đỡ đầu/ cấp ruộng, cấp trâu/ làm nhà, làm cửa/ vài ba năm nữa/ có điện, có đài/ có con sông dài/ có vòi nước máy/ không ăn ruốc cáy/ như ở quê nhà/ tha hồ tăng gia/ dê cừu bò lợn…). Đọc xong, không những không bị phạt ông Du còn được tuyên dương". (xin xem nguyên bản 2 bài thơ trên ở cuối bài)
Cuối những năm 80, đầu năm 90 của thế kỷ trước, địa phương lại có chủ trương vào Đắk Lắk xây dựng vùng kinh tế mới, ông Du bí mật "ra" thơ:"Đắk Lắk, Đắk Lây/ Bay cứ vào đây/ có cà phê đặc/ có điện nguy nga/ mỗi đứa mỗi tòa/ giống như... lều vịt". Lần này, chính quyền xã gọi ông ra trụ sở quyết làm cho ra nhẽ. Ông thở dài thườn thượt: "Bọn trẻ con lại mạo thơ rồi, oan cho tôi quá. Tôi viết: "Mỗi đứa mỗi nhà/ như nhà Bảo Đại/ đứa mô ngu dại/ không đi Đắk Lây" chứ đâu phải ở lều con vịt mà không đi vào Đắk Lây, Đắk Lắk".
Lần khác thấy mấy ông cụ đang hì hục đào hố trồng cây, ông Du chọc vui:"Các cụ trồng cây ở vệ đường/ Cụ nào cụ nấy ngực giơ xương". Nghe 2 câu thơ nghịch này, UBND xã cử cán bộ văn hóa đến hỏi ngay, nhưng ông Du liền thanh minh bằng 2 câu thơ thuận: "Mấy cụ trồng cây ở vệ đường/ cụ nào cụ nấy mặt như gương". Từ đó, biết tính ông Du nghiện làm thơ vui nên không ai bắt bẻ ông nữa. Ông Hợi cho hay, ông Du đã mất cách đây mấy năm, những bài thơ dung dị, vui vẻ đời thường cũng đang được người nhà ông tập hợp lại. Bởi lúc sinh thời, những bài thơ đó được ứng khẩu từ cuộc sống thường nhật, chứ ông không có ý định viết và lưu lại.
Và “thơ trào phúng”
Ông Hồ Sĩ Bằng giới thiệu bộ sưu tầm về văn chương Làng Quỳnh đồ sộ của mình. |
Ông Hồ Sĩ Bằng, nguyên Viện trưởng Viện Quan hệ quốc tế (Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh), cũng là người con làng Quỳnh. Xuân này, ông bước sang tuổi 86, tuy tuổi cao sức yếu nhưng ông vẫn miệt mài sưu tầm, tập hợp những tác phẩm văn chương của con dân làng Quỳnh, kể cả sách báo nói về quê hương.
Hôm chúng tôi đến nhà ông ở Ô Chợ Dừa (Hào Nam , Hà Nội) cũng là hôm ông đảo tung phòng sách của mình để phơi, chống ẩm, mối mọt. Riêng về thơ ca làng Quỳnh, ông Bằng có đến một thùng to những sách, giấy, bản viết tay. Ông Bằng cho biết: "Người dân quê tôi có tài làm thơ, đặc sắc là thơ trào phúng. Những vần thơ đó mộc mạc, dí dỏm chọc ngoáy nhưng thể hiện được sự bộc trực, ngay thẳng của mình".
Ông Bằng tâm sự: Thơ trào phúng làng Quỳnh không chỉ chọc ngoáy mà còn thể hiện được tình cảm gia đình mặn nồng. Bài thơ "Thương vợ" của nhà thơ Dương Tự Cường hẳn người làng ai cũng thuộc: "Đêm nằm sờ vợ nghĩ mà thương/ Cái bụng đói meo lép tận giường/ Đôi má nhăn nheo nào thấy thịt/ Cặp giò ngiu ngẳng đã giơ xương/ Bởi thương con cái chưa no ấm/ Hay xót ông chồng mãi gió sương/ Hết nắn lại sờ, sờ lại nắn/ Càng sờ, càng nắn lại càng thương".
Ngoại trừ những bài thơ trào phúng được sáng tác trong quá trình lao động của những người nông dân chân chất, làng Quỳnh có những nhà thơ trào phúng có tiếng ở làng thơ Việt Nam như nhà thơ Hồ Trọng Hiếu (Tú Mỡ), Hồ Sĩ Giàng, Hồ Văn Khuê, Dương Huy, Dương Tự Cường...
Nhà thơ trào phúng Dương Huy - nguyên Chủ tịch Hội VHNT Nghệ An, kiêm Tổng biên tập Tạp chí Sông Lam - là người quanh năm suốt tháng làm thơ trào phúng đăng báo. Sau ngày về hưu, mỗi ngày ông phải viết ít nhất một bài thơ châm biếm cho các tờ báo đã đặt hàng. Tài sản văn chương của ông là hơn 1.000 bài thơ trào phúng, in cuốn nào bán hết veo cuốn đó.
Theo An Quỳnh
Gia đình & Xã hội
=====
Nguồn: http://www.tin247.com/trao_long_lang_quynh-1-21703310.html
BÀI 1 (ngược hướng)
Nông trang nông trại
Đứa nào mà dạiNguồn: http://www.tin247.com/trao_long_lang_quynh-1-21703310.html
BÀI 1 (ngược hướng)
Nông trang nông trại
Thì đi nông trang
Xa xóm xa làng
Xa quê hương mãi
Nín đi thì dại
Nói lại thêm phiền
Cổ động tuyên truyền
Nói ngon nói ngọt
Nói như mật rót
Ai cũng muốn đi
Còn hắn nằm lì
Ở nhà với vợ
Đầu niêu đầu bị
Lội suối trèo đèo
Dốc núi cheo leo
Chân sim bóng đá
Ăn toàn sắn luộc
Với lại ngô rang
Ỉa dọt đầy làng
Thuốc men không có
Đêm nằm một xó
Ngày chạy lăng xăng
Quanh quẩn mấy thằng
Nông trang nông trại
BÀI 2 (thuận hướng)
Nông trang nông trại
Thắm tình An - Ngãi
Thì đi nông trang
Lập xóm lập làng
Lập quê hương mới
Cán bộ lui tới
Chính phủ đỡ đầu
Tậu ruộng tậu trâu
Tậu nhà tậu cửa
Thời gian chi nữa
Thì có điện đài
Có con sông dài
Có vòi nước máy
Không ăn ruốc cáy
Như ở đồng bằng
Tha hồ tăng năng
Trâu bò dê lợn
Con nào to lớn
Thì vật ra ăn
Chính phủ rộng lòng
Không bao giờ hẹp
Quê hương tươi đẹp
Quê hương cụ Hồ
Bát ngát ruộng bờ
Tha hồ cầy cấy
Ngày đi phát rẫy
Tối về nghỉ nghêu
Đêm nghe chim kêu
Suối khe róc rách
Tôi kể minh bạch
Câu truyện nông trang
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét