(Lời bạt Tuyển tập thơ Séc &
Slovakia
của Do.honza Đỗ Ngọc Việt Dũng)
“Nếu như mỗi bài thơ đã là một
định nghĩa về thơ
thì liệu mỗi bản dịch không chỉ định
nghĩa lại mà còn là một định nghĩa khác về thơ?
(Đ.Q.)
Hai chữ “Tiệp Khắc” thân quen
Thay cho “Séc và Slovakia”,
tôi dùng chữ cũ “Tiệp Khắc”. Hai chữ hết đỗi thân quen và tự hào của cái thuở
ban đầu 60 năm trước cho tới thời hoàng kim trong giao lưu văn hóa, chính trị
và xã hội giữa hai đất nước Việt Nam và Tiệp Khắc những năm 1980. Đó
cũng là tuổi đời, là đoạn đời đẹp nhất mà Nàng thơ Tiệp Khắc dành cho người
dịch và biên soạn cuốn Tuyển tập thơ Séc
& Slovakia([1]).
Bia Tiệp; Pha lê
Tiệp; và Hiến chương 77 - Cách mạng Nhung 1989 - Tổng thống Václav Đó là 3 hình
ảnh đầu tiên về Tiệp Khắc trong thời đương đại. Với văn nghệ sĩ,, còn là Liên
hoan phim quốc tế Karlovy Vary; là Antonín Dvořák - nhà soạn nhạc quan trọng
nhất của mọi thời kỳ, có tác phẩm From
the new world từng theo những bước chân đầu tiên của loài người chinh phục
Mặt trăng; là Franz Kafka - nhà văn gốc Do Thái, người tạo nguồn cho chủ nghĩa
Hiện sinh; là Milan Kundera - nhà văn nổi tiếng nhất của Tiệp Khắc hiện đại; và
là Jaroslav Seifert - công dân Tiệp Khắc đầu tiên với tư cách nhà thơ đoạt Giải
Nobel về Văn học năm 1984. Thật tự hào cho 18 triệu chủ nhân của 2 ngôn ngữ Séc
và Slovak trên toàn thế giới.
Trong hàng ngũ các Đặc sứ Nàng thơ Đông Âu & Nga đang xuất hiện trở
lại Việt Nam vào các năm qua như Tạ Minh Châu của Ba Lan, Thụy Anh của Nga,
Nguyễn Hồng Nhung của Hungary, Phạm Kỳ Đăng của Đức… đang có thêm Do.honza Đỗ
Ngọc Việt Dũng của Tiệp Khắc.
Dịch giả Việt-Tiệp
Tự bản chất, mỗi bài thơ đã là
một đơn vị nhiều ý nghĩa; ngay trong cùng một văn hóa, một ngôn ngữ cũng đã có
nhiều cách hiểu một bài thơ. Do vậy, việc dịch thơ thường bị coi là bất khả thi.
Nhưng cũng tự bản chất, như một yếu tố văn hóa, thi ca có tính giao lưu; mà
dịch thuật chỉ như một cái giếng lộ thiên cho các dân tộc khác tới cùng hân hưởng
nguồn-thơ của dân-tộc-nguồn. Ai sẽ là người đào giếng, khơi mạch nước ngầm? Chính
là các dịch giả tri âm tri kỷ. Bao đời nay, giữa thế giới thi ca nhân loại, hàng
ngàn dòng thơ đã được hiển lộ trong ánh mắt của những kẻ yêu thơ ở mọi vùng đất
nước rất xa khác nhau.
Giờ đây, dường như lần đầu tiên, đang
tới với bạn đọc tiếng Việt là một tuyển dịch hệ thống và cụ thể dòng thơ Séc - Slovakia
từ cuối thế kỷ 19 đến nay, qua chừng 40 tác giả tiêu biểu với gần 150 bài thơ.
Trước Do.honza Việt Dũng, ít thấy
người dịch tiếng Việt chuyên tâm dịch thơ và giới thiệu cuộc đời, sự nghiệp các
thi sĩ Tiệp Khắc. Nếu có, chỉ với một số ít tác giả nổi tiếng (như J. Neruda,
V. Nezval) được “quá giang” trong một tuyển chọn nào đó về thơ thế giới. Hai
thập niên nay, theo chúng tôi được biết, có 2 dịch giả nối tiếng và chuyên
nghiệp đã là chủ nhân của 4 “bộ sưu tập” tiếng Việt cho thơ Tiệp hiện đại: đó
là Dương Tất Từ - chuyên gia dịch văn học Tiệp từ 40 năm nay, và Diễm Châu - nhà
thơ kiêm dịch giả tiếng Pháp của hàng chục dòng thơ trên thế giới, trong đó có
thơ Tiệp Khắc.([2])
Do.honza vốn không phải
là dịch giả chuyên nghiệp, chỉ vừa chính thức gia nhập làng văn Việt Nam
vài năm nay. Nhưng việc dịch thơ Tiệp Khắc trong anh lặng lẽ cả chục năm rồi,
với lòng yêu đất nước, văn hóa và con người Tiệp Khắc mê đắm. Vị Đại sứ Cộng hòa Séc tại Việt Nam, ông Martin
Klepetko từng nói: “Gọi Do.honza Đỗ Ngọc Việt Dũng là người Việt hay người
Czech đều được.”
Đọc dịch phẩm này,
chúng ta thấy văn hóa và thi ca Séc đã vào anh sâu, nhuyễn. Lời ý thơ được chuyển dịch trầm bổng bám theo nhịp điệu thơ
Việt mà vẫn du dương dẫn bạn đọc đến tinh thần của nguyên bản. Vì người dịch
chủ trương phá thi điệu thơ Séc nên độc giả hay gặp phải các chỗ bí vần thơ
Việt. Để khắc phục điểm yếu tất yếu đó, Do.honza như đã tìm ra sự thông đồng
giữa hai ngôn ngữ Việt-Séc vốn rất khác nhau về gốc gác, cũng như sự giao thoa
giữa hai tình cảm dân tộc vốn không trùng nhau về phong độ. Anh đã khiến
chúng ta cảm nhận được thơ Tiệp Khắc trong từng tác giả, trào lưu, thời kỳ. Ở
đây, điểm nhìn của người dịch không thuần túy từ một người Việt rành tiếng
Tiệp. Đọc một vài bài hay toàn tập sách này, có thể ai đó khác thị hiếu hoặc
khắt khe khi thẩm định thơ chuyển ngữ, song tôi tin là họ đã thấy vẻ đẹp và sự ẩn
mật của cái gọi là thi ca.
Trên bình diện
quốc gia, Tuyển tập đang làm cho hai Nàng
thơ của hai đất nước trở thành bạn hữu thật sự. Đang mang tới các bạn yêu thơ,
những người làm thơ và quan tâm đến thơ, trong đó có tôi, một địa chỉ đầy ý
nghĩa về văn hóa và hữu ích về nền thơ Tiệp Khắc trong 100 năm qua.
Nhân ngày 2/9 vừa qua trên truyền hình VTV4 vị Phó Đại sứ
Cộng hòa Séc tại Việt Nam, Karel Šrol cho biết bản thân ông và Bộ ngoại giao
Séc trong khi theo dõi văn hóa Việt-Séc chưa thấy ai vừa đủ tiếng Séc lại có
khả năng thơ hòa nhập đến thế. Và như trong bài tựa cho cuốn sách, nhà nghiên
cứu Việt học Ondřej Slówik Nam nhận định: “Quyển sách Tuyển tập thơ Séc & Slovakia do bác Honza dịch là một tác phẩm
rất đặc biệt tổng quát thơ ca bằng tiếng Tiệp từ thế kỷ 19 đến nay. Kể tới bây
giờ, chưa bao giờ có người Việt nào dịch thơ Tiệp kỹ như thế này.”
Trong bài bạt cho một
tuyển dịch khác, chúng tôi đã mạn phép đề xuất một loại barem dịch thơ: “Nếu
dùng ba tiêu chí Tín, Đạt, Nhã từng rất thân thuộc và khả dụng trong dịch
thuật, nhưng theo hai hướng đi ngang và đi lên Tín --> Đạt --> Nhã,
ta tạm cho rằng: Tín là đúng nội dung và văn bản của bài thơ cùng phong cách,
ngôn ngữ của nhà thơ (Tín: 6-7 điểm). Đạt là truyền thi cảm và chuyển hóa ít
nhiều nhịp điệu (Tín + Đạt: 7-8 điểm). Nhã là như một tác phẩm thơ của ngôn ngữ
đích (Tín + Đạt + Nhã: 9-10 điểm).”
Theo cách đó, và dù không
có khả năng đọc nguyên tác tiếng Séc - Slovak, chúng ta có thể cho rằng người chuyển ngữ Do.honza đã chọn cách
dịch Tín mà vươn tới Đạt trong sự cố gắng rất cao để có Nhã. Hầu hết các bản
dịch trong tuyển tập đều có nội dung của vấn đề thơ và đạt tính thơ về nghệ thuật.
Như vậy, Tuyển tập thơ Séc & Slovakia là ấn
phẩm nhiều ích lợi. Hữu ích là tiêu chuẩn cao nhất cho các tác phẩm tuyển chọn.
“Các
nhà thơ - chính là người định hình ý thức dân tộc của chúng tôi.”
Đó là quan điểm
của J. Seifert từng sáng rõ trong Diễn từ Nobel
Văn chương 1984([3]). Chúng
tôi xin trích dẫn hơi dài, bởi khó có thể ngắn hơn nếu muốn hiểu người Séc nói
về mình, về thơ ra sao:
“Nhiều người,
nhất là người nước ngoài, thường hỏi tôi: làm sao có thể giải thích tình yêu
lớn lao mà dân tộc chúng tôi dành cho thơ ca; làm sao ở chúng tôi có thể tồn
tại không chỉ lòng quan tâm đến thơ ca, mà là cả một nhu cầu đối với thơ ca. Có
lẽ, chỉ có thể giải thích rằng đồng bào tôi có một năng lực hiểu thơ ca lớn hơn
bất cứ dân tộc nào khác. Theo tôi nghĩ, đó là một hệ quả của lịch sử dân tộc
Séc chúng tôi trong suốt 400 năm qua, và đặc biệt là sự phục sinh dân tộc của
chúng tôi vào đầu thế kỷ 19. Việc mất độc lập về chính trị trong thời kỳ Chiến
tranh ba mươi năm đã khiến dân tộc chúng tôi bị mai một thành phần tinh hoa
nhất về tinh thần và chính trị của mình.”
“Tuy nhiên, vào
đầu thế kỷ 19, cuộc Cách mạng Pháp và thời kỳ Lãng mạn đã khai mở trong chúng
tôi những nguồn xung lực mới, khiến dân tộc tôi một lần nữa lại quan tâm đến
những lý tưởng dân chủ, đến ngôn ngữ và văn hóa của mình.”; “Thơ ca là một
trong những thể loại văn học đầu tiên của chúng tôi được hồi sinh.”;
“Ðiều đó giải
thích sự tôn sùng ở nước tôi đối với thơ, và uy thế cao vời mà suốt trong thế
kỷ trước người ta vẫn gán cho thơ. Nhưng không phải chỉ trong thế kỷ trước thơ
mới đóng vai trò quan trọng. Thơ cũng nở rộ huy hoàng cả vào đầu thế kỷ này và
trong thời kỳ giữa hai cuộc thế chiến, qua đó trở thành phương thức quan trọng
nhất để biểu hiện nền văn hóa dân tộc của chúng tôi trong Thế chiến thứ hai,
thời kỳ mà nhân dân chịu nhiều thống khổ và chính vận mệnh dân tộc chúng tôi ngàn
cân treo sợi tóc.
Mặc cho mọi hạn
chế từ bên ngoài, mặc mọi thứ kiểm duyệt, thơ đã thành công trong việc tạo lập
những giá trị mang đến cho con người niềm hy vọng và sức mạnh. Cả sau chiến
tranh - 40 năm trở lại đây - cũng vậy, thơ chiếm một vị trí rất quan trọng
trong đời sống văn hóa ở nước tôi. Dường như sứ mệnh tiền định của thơ, thơ trữ
tình không chỉ là nói với con người một cách gần gũi nhất, một cách thân thiết
đến cùng cực, mà còn là nơi ẩn náu sâu thẳm và an toàn nhất của chúng tôi, nơi
chúng tôi tìm sự cứu rỗi trong những nghịch cảnh mà thậm chí đôi khi chúng tôi
không dám tìm tên gọi.”;
“Các nhà thơ,
các nhà trữ tình chính là người định hình ý thức dân tộc của chúng tôi, nói lên
khát vọng dân tộc của chúng tôi trong những thời đại đã qua và vẫn đang tiếp
tục định hình ý thức đó cho mãi đến ngày nay. Dân tộc tôi đã quen hiểu mọi sự
thông qua cách trình bày của các nhà thơ.”
Người Việt, thơ
Việt - hơn ai hết, hơn gì hết - rất đáng ký tên chung dưới những dòng chữ máu
và hoa đó!
Các
khuynh hướng thơ Tiệp Khắc
Trong Tuyển tập có gần đủ các trường phái, trào
lưu trong sáng tạo nghệ thuật thơ hiện đại thế giới: Lãng mạn, Tượng trưng,
Hiện thực, Siêu thực, Hiện sinh, Vô sản, Hiện thực xã hội chủ nghĩa… Cho dù đa
số các tác phẩm được chọn mang giai điệu trữ tình và dịu dàng tưởng như thuần
cổ điển. Cho dù với một số tác giả ở hẳn trong các khuynh hướng siêu thực, tượng
trưng nhưng cũng được chọn các tác phẩm và được diễn dịch “trữ tình hóa” theo phong
cách truyền thống vốn là sở trường của người dịch.
Khác hẳn với thơ
Mỹ - Canada, với sự tiến
triển đều đặn của mình thơ châu Âu từ cuối thế kỷ 19 đến nay là loại thơ dễ đọc
với độc giả Việt Nam
vốn từng tiếp nhận trực tiếp thơ hiện đại từ “lò” thơ Pháp. Thơ Tiệp Khắc là
tiêu biểu của nền thơ châu Âu trong vẻ thân thiện về tư duy và đậm cảm xúc về ý
niệm.
Phần tiểu sử cuộc
đời và sự nghiệp văn học của các tác giả được trình bày kỹ càng, đa dạng. Cả về
dung lượng lẫn nội dung đều có thể xem như phần độc lập của cuốn sách. Có không
ít tiểu sử tác giả (như O. Březina, J.
Neruda, K. Hlaváček) được giới thiệu như các bài tổng quan xinh xinh. Gần 40
chân dung thơ là cả xã hội, chính trị, văn hóa Tiệp Khắc trong một thế kỷ được thu
nhỏ.
Qua Tuyển tập, độc giả thấy nổi trội nhất là
dòng thơ trữ tình Tiệp Khắc bao gồm ảnh hưởng từ trào lưu Lãng mạn “gốc” cho
đến mọi phong cách lãng mạn sau đó cho đến nay. Vì thế có thể gọi đây là tập
thơ tình yêu.
Khuynh hướng thứ
hai từng làm nên sức mạnh và vị trí thơ Tiệp Khắc trên trường quốc tế là dòng
thơ Tượng trưng, được nảy sinh và phát triển đồng thời với trào lưu chung của
Pháp và thế giới hồi cuối thế kỷ 19 - đầu thế kỷ 20. Với nhiều tên tuổi nổi
danh thế giới như: O. Březina – “được xem
là một trong những hiện tượng lớn nhất của thơ ca thế giới”([4]),
rồi đến J. Vrchlický, S. Antonín, K. Hlaváček…
Khuynh hướng siêu thực Séc có hai
người “khổng lồ” dẫn đầu là V. Nezval, J. Neruda. Chủ nghĩa lãng mạn hồi sinh
có K. Erben là đại diện. Mạch thơ Ngôn ngữ tạo hình mới có tên tuổi lớn là V. Holan.
Khuynh hướng Hiện sinh với O. Fischer, J. Kainar… Nền thi ca vô sản qua J.
Wolker là đại diện tài ba nhất. Dòng thơ đương đại Tiệp Khắc với các tên tuổi:
M. Válek, J. Simon, J. Žáček, V. Hrabě, H. Krchovský… Dường như chỉ còn khuynh
hướng Hậu hiện đại là không có mặt, nếu không tính P. Horáková mang đôi chút
tâm thức sáng tác ngoại biên hóa.
Do tính chất đối
lưu của các thi pháp nên không chỉ ở thơ Tiệp Khắc việc xếp đặt tác giả vào các
trường phái luôn luôn bị bấp bênh, trừ một vài trường hợp rõ rệt. Danh sách
trên chỉ tiện dụng cho các độc giả đang làm quen với thơ Séc - Slovakia.
Thơ
Tiệp Khắc nói gì
Không có nhiều
đề tài qua thơ được chọn vào Tuyển tập.
Người biên soạn có thiên hướng tình yêu (nam nữ, tổ quốc, gia đình), về thiên
nhiên, về sự sinh tồn và nhân sinh... Chúng ta phần nào nhận ra, trong thể trữ
tình, thơ Tiệp Khắc nghiêng về diễn tả sự việc đời thường với cảm xúc nhẹ,
lắng. Tình tứ không mạnh mẽ, thê thiết như thơ tình của Nga. Không dữ dội và
sắc cạnh như thơ Đức. Không cụ thể, triết lý thoáng hài hước như thơ Ba Lan...
Chất lãng mạn Tiệp Khắc có lẽ dựa trên cảm xúc tương lai mà không quên trực
giác hiện tại khi nhìn về cổ điển? Thơ là người. Thơ Tiệp Khắc thể hiện bản
tính người Tiệp Khắc an hòa, dễ tính, có phần giản dị; biết lánh đau thương để
tìm chỗ tồn tại.
Dù ở thời kỳ,
khuynh hướng nào, tạng thơ trong Tuyển
tập quả là theo phương châm: “Thơ
không viết ra để các nhà thơ và nhà phê bình văn học tiêu thụ với nhau trong
một cái nồi úp kín mà ở đó cái gì đó đang lên men mốc giống như Viện hàn lâm
Pháp… Thơ viết ra dành cho bạn đọc”. Đúng như nhận định của Seifert nêu ở
trên: “Dân tộc tôi đã quen hiểu mọi sự thông qua cách trình bày của các nhà thơ.”
Tuyển tập như một “tập đại thành” xinh
xắn về tình cảm và tình yêu của người Séc -Slovakia để bạn có thể tin cậy dùng
làm quà tặng trong Ngày lễ tình yêu. Và viết đậm lên đó câu thơ của khôi nguyên
Nobel văn học 1984 Jaroslav Seifert từng thảng thốt: “Nàng thơ muôn năm, tình
yêu muôn năm!”
Các nhà thơ Tiệp Khắc - Ai là ai…
Tuyển tập là chân dung kép về các thế hệ trữ tình Tiệp Khắc dọc thế
kỷ qua. Một bức ảnh chung của đại gia đình các tác giả thơ hiện đại Séc - Slovakia (dù phần Slovakia còn rất ít ỏi). Mỗi người
mỗi kiểu thơ, và đều là thơ Tiệp Khắc chính hiệu. Không lẫn được.
Bằng tình yêu
chân thành và sinh động, Do.honza Việt Dũng đã chọn lựa giữa cả ngàn được gần
40 nhân vật cùng hành trang ngôn ngữ Séc - Slovakia của họ, để mời họ “nhập
tịch” vào xứ sở Việt Nam trong tiếng Việt đáng yêu này.
Đây cũng là lần đầu tiên, độc giả
đại chúng cũng như giới văn học chuyên nghiệp Việt Nam có được một tuyển chọn
tiểu sử văn học cùng đôi nét đời thường của các đại diện thi ca hiện đại Tiệp
Khắc. Trong đó có một số tên tuổi lừng lẫy và đa số là những tác giả làm nên
một nền văn hóa xuất sắc nhưng chưa có dịp được biết tới ở Việt Nam.
“Bàn về thơ, tuy
cần chú trọng về quy cách, nhưng làm thơ thì phải gốc ở tính và tình.” Chu Thần
Cao Bá Quát bảo vậy, từ xưa. Tính và tình ở mỗi thi sĩ Séc - Slovakia có thể thấy phần nào qua
tiểu sử văn học. Để minh họa cho tính và tình trong thi phẩm đi kèm.
Cũng như trong
mọi xứ thơ khác, mỗi thi sĩ Tiệp Khắc là mỗi mảnh đời tư và gia thế, mỗi nghề
nghiệp và quan điểm. Như người thường, họ đều có sự sống cái chết không ai
giống ai. Trong xã hội Tiệp Khắc thế kỷ 20 với quá nhiều thăng trầm, nhiều
người an lành suốt đời với dòng văn nghệ chính thống; lắm kẻ chọn vị thế loài
lề trọn kiếp; cũng nhiều vị giao lưu trung tâm - ngoại vi. Cái quý của họ là
luôn trong tư cách thi sĩ, tác phẩm của họ có tên chung: thi ca Tiệp Khắc. Dẫu
có nơi có lúc bị dập vùi. Đúng nghĩa, họ là những người thơ, của một đất nước
thơ.
Mời bạn đọc ngắm
nhanh lại các nét mặt sáng rỡ giữa những người thơ đó, trước khi thưởng thức
lại một số sáng tác thi vị nhất của họ.
Vítězslav Nezval
(1900-1958): “Nhà thơ Séc có tên tuổi, nhà
văn và nhà biên dịch, đồng sáng lập viên Chủ nghĩa thơ ca và là nhân vật đứng
đầu chủ nghĩa Siêu thực (Surrealismus)”. Với người viết bài này, trong thuở
đầu đời khi vừa biết thơ tình và biết yêu đã may mắn được đọc bài thơ nức danh
Nezval qua bản dịch “dịu dàng quá, dịu dàng không chịu nổi” của thi sĩ kiêm
dịch giả tài hoa và tinh tế là Tế Hanh: bài Lời
từ biệt và chiếc khăn. Dạo đó với tôi thơ Tiệp là Nezval, là Lời từ biệt và chiếc khăn. (Xem tiếp
phần sau).
Jan Neruda
(1834- 1891): “Nhà thơ nổi tiếng Séc và
nhà báo của thế kỷ 19”; “Có cuộc đời cảm thấy không được đánh giá và từ đó
phát triển theo hướng quan hệ tiêu cực với mọi người. Ông có vấn đề với rượu.
Phần lớn cuộc đời sống trong khó khăn.”; “Thơ Neruda chứa đầy những hoài nghi và bi quan, mà đôi khi đi vào các
giới hạn của thuyết hư vô.” Bạn có biết? Một thi nhân người Chile,
khi chưa thành thiên tài thế giới đã quá mê Jan Neruda của Tiệp Khắc mà chọn
bút hiệu là Pablo Neruda!
Otokar Březina
(1868-1929): “Nhà văn, nhà thơ Séc; bằng
công trình thơ của mình ông đã hoàn thiện chủ nghĩa hình tượng Séc dẫn tới sự
chuyển biến chung của văn học Séc.”; “Điều thú vị là ông đã 7 lần được đề cử
(1916, 1917, 1918, 1920, 1921, 1925, 1928 và 1929) giải Nobel về văn học.”;
“Những thử nghiệm tác phẩm văn học đầu tiên của ông trong các năm 1883-1887
thuộc nhóm giá trị khó nhất của chủ nghĩa hình tượng văn học châu Âu.”
Jiří Wolker
(1900-1924): “Nhà thơ, nhà báo và nhà
viết kịch người Séc; một trong những thành viên sáng lập Đảng Cộng sản Séc năm
1921.”; “Là người đại diện tài năng
nhất của nền thi ca vô sản.”; “nhìn thấy một thế giới đầy mâu thuẫn, trái
ngược, thế giới của đói nghèo và đau khổ, cần được thay đổ”; Wolker trong linh
cảm trước cái chết gần kề đã tự viết dòng chữ để khắc lên mộ mình: ‘Nơi đây yên
nghỉ Jiří Wolker, nhà thơ, người từng yêu thế giới và cho sự công bằng của nó
mong muốn đấu tranh, nhưng trước khi có thể tuốt trái tim của mình ra chinh
chiến, anh chết trẻ ở tuổi hai tư!“
Jaroslav Seifert (1901-1986): “Nhà thơ, nhà văn, nhà báo, biên dịch Séc;
đồng sáng lập viên Chủ nghĩa thơ ca”; “học nhiều trường trung học nhưng không tốt nghiệp vì hay bỏ học. Trong
thời gian đó ông lang thang đến các quán bia Praha sáng tác thơ để đổi lấy bia.”; “Trong những năm 1920 được đánh giá
là đại diện chính của nền nghệ thuật tiên phong Tiệp Khắc. Tháng 3 năm 1929
cùng 6 nhà văn thơ hàng đầu khác của Đảng bị khai trừ khỏi Đảng cộng sản vì đã
ký vào Manifest sedmi (Tuyên ngôn bảy người) phản đối việc bolševich hóa trong
lãnh đạo mới của Đảng cộng sản Tiệp Khắc.”; “1968-1970 là Chủ tịch Hội nhà văn
Tiệp Khắc. Năm 1976 nằm trong những thành viên đầu tiên của Hiến chương 77.”; “Năm
1984 được trao Giải Nobel về văn học”.
Miroslav Válek
(1927-1991): “Nhà thơ Slovakia, ký giả,
nhà biên dịch, người tổ chức văn hóa, nhà chính trị, người đại diện có tên tuổi
của thi ca hiện đại Slovakia”;“1969-1988 là Bộ trưởng Văn hóa”; “1989 là Chủ
tịch Hội nhà văn Tiệp Khắc”; “tự nguyện rời bỏ chính trị trước tháng 11/1989.”
Vladimír Křivánek (1951-): “Nhà thơ, nhà văn,
sử học, nhà phê bình, giáo sư đại học, biên tập và dịch giả”; góp phần
kiến tạo và chỉnh sửa bốn tuyển tập hàn lâm ‘Lịch sử Văn học Séc 1945-1989
in sách bằng tiếng Bulgary,
Ba Lan và Việt Nam.”; “2008-2011 là Chủ
tịch Hội Nhà văn Séc.”
Petra Horáková (1986-): “Giáo viên giảng dạy nghệ thuật cho trẻ em
và thanh thiếu niên, giám đốc chi nhánh của tổ chức phi lợi nhuận đồ họa và vẽ
tranh tại Plzeň.”
Và, độc giả có
nhận ra không: trong các thi sĩ tham dự Tuyển
tập, số nữ sĩ nổi danh như Petra Horáková rất ít ỏi. Chẳng lẽ Nàng thơ Tiệp
Khắc chỉ “yêu” phái mày râu?
Hoa Tiệp đất Việt
Trong “công viên hoa” Tiệp được nở mọc trên
đất Việt hơn nửa thế kỷ qua, “vườn hoa” Do.honza Đỗ Ngọc Việt Dũng vừa xuất
hiện, đang còn hiếm hé ra các đóa thật đặc sắc nhưng đã cống hiến cho khách
làng hoa một dung nhan hiền hòa, thanh lịch và đa sắc.
Mời độc giả cùng
thưởng ngoạn các bông-hoa-thơ Tiệp mà chúng tôi cho là đẹp nhất từ đây…
Trong dịch thuật
không thể chỉ có một con đường, một đích đến. Thêm lần nữa, xin ví von về việc
dùng tiêu chí Tín - Đạt - Nhã khi dịch chuyển các loài giống hoa-văn-học đến xứ
sở có đất có nước khác hẳn mà vẫn gìn giữ được Dáng - Sắc - Hương của chúng.
Do.honza đã linh
hoạt áp dụng định nghĩa của Fyodorov thường được nhiều người chấp nhận: “Dịch
là chuyển đạt một văn bản từ một ngôn ngữ này (nguồn) sang một ngôn ngữ khác
(đích) một cách trung thành trong chừng mực có thể, cả về nội dung lẫn về hình
thức.” Với hầu hết các văn bản, anh đứng ở giữa tác giả và độc giả, giữa ngôn
ngữ Việt và ngôn ngữ Séc. Tức là, không tái sáng tác đưa bài thơ tiếng Séc đến
một đời sống Việt; mà cũng không duy trì nghiêm ngặt nguyên tác từ nhịp điệu
(cái bất khả trong dịch thơ) đến ngôn ngữ, phong cách. Với vị dịch giả Séc-Việt
này, dịch là bắc cầu, là sáng tạọ; người dịch không hẳn là đồng tác giả mà
thường là “dấu phẩy của tác giả”. Song, cũng như nhiều người dịch khác, không
hiếm khi Do.honza vẫn thử tài vận may khi lao vào hai thái cực mà ngay các bậc
cao thủ cũng phải nhắm mắt chờ sự bất ngờ của thành tựu. Bùi Giáng tiên sinh là
hiện tượng rõ nhất. Chính tính “phập phù” đã làm cho bộ môn dịch thuật trở nên
nghệ thuật hơn, như ở lãnh vực sáng tác.
Trước tiên là
bản dịch thú vị nhất trong Tuyển tập:
Đó là bài Bài ca (Chim đưa thư) của Seifert được in trang trọng nơi bìa
cuối với bản chuyển sang thể lục bát. Bên trong sách cùng bản này còn có 2 bản
ở thể 5 và 7 chữ. Duy nhất của Tuyển tập,
một bài thơ có tới 3 bản dịch. Vì sao? Vì là bài thơ hay trước đó nhiều người
đã dịch. Vì tác giả là chủ nhân Giải thưởng Nobel danh giá. Vì cùng “gu” với
dịch giả; v.v…
Bạn hãy đọc lại
thi phẩm Bài ca qua 4 bản dịch tiếng
Việt nữa, từ 4 dịch giả khác([5]): Dương
Tất Từ và Lương
Duyên Tâm trực tiếp từ nguyên bản tiếng Séc; Diễm
Châu và Thân Trọng
Sơn qua bản dịch tiếng Pháp. Dương Tất Từ chọn cách dịch trung dung theo quan
niệm chuẩn của Fyodorov. Ba vị còn lại đều theo xu hướng chung thủy với nguyên
tác không chỉ về nội dung, ý nghĩa cả về nhịp vần và nhất là cấu trúc trong thể
thơ tự do. Cả 4 bản dịch đó, vì thế, có điểm chung thường được coi như một tiêu
chí: đọc biết ngay là thơ dịch.
Do.honza như cố
tình khác những người đi trước khi đã chọn 3 thể vần điệu đặc thù Việt. Và rồi
anh “thành chính quả” ở thể Việt tính nhất: lục bát. Chưa so sánh nguyên tác,
chỉ so với 6 bản dịch kia ta cũng thấy rằng, với bản lục bát người dịch đã tập
trung vào nhu cầu tiếp nhận của ngôn ngữ dịch và thêm bớt, xô lệch nguyên tác.
Bản dịch bài Bài ca của Seifert đã làm sang giá cho lục bát
Việt. Đó cũng là một “bài thơ” mới và hay, đứng cạnh bài thơ cũ đã hay rồi. Thi
ca Đông và Tây gặp nhau tại đây!
Bàn thêm:
+ Hỡi những
ai đã từng ly hương rồi hồi hương, nếu không khóc ra nước mắt thì cũng nén vào
máu mủ hai câu sáu-tám này: “Cùng bao
tuyệt vọng trên đời/ Ta hồi hương trở về nơi quê nhà”. Cảm ơn Do.honza Việt
Dũng! Cảm ơn Jaroslav Seifert! Ai đã khóc đã nén nhiều hơn ai? Trong chúng ta…
+ Tôi yêu bản
lục bát Do.honza. Tôi thích bản Diễm Châu. Tôi quý bản Dương Tất Từ.
+ Ba bản của Do.honza mang 3 cung bậc
khác nhau ở cùng một trạng thái. Hai bản kia chưa nhuyễn về nghệ thuật thơ,
nhất là bản 7 chữ còn vài chỗ gượng. Hồn vía “bài thơ” tiếng Việt của bài thơ Bài ca nguyên tác tiếng Séc đã về hết bản lục bát
rồi!
+ Trong Tuyển
tập, còn một bản dịch lục bát nữa (bài Khoảng cách yêu thương của Wolker). Cũng là một bài thơ mới trong
tiếng Việt. Lời nhuần nhụy nhưng chưa được như bài Bài ca; có lẽ do nguyên tác chưa là một bài thơ hay? Mà cũng khó
đoán biết, dịch là “phập phù”.
Bài Vĩnh biệt và chiếc khăn tay của Nezval:
Vẫn với chủ thể chiếc khăn vẫy
trong chia lìa. Đấy từng là thơ tình nằm lòng của kẻ viết bài này, với tên Lời
từ biệt và chiếc khăn([6]). Thời
đó, bài thơ nằm trong luồng lãng mạn tuyệt vời trôi đến Việt Nam từ trời Âu tân tiến và cuốn hút.
Nó ngây ngất đi vào sổ chép thơ của đủ lứa tuổi, tầng lớp để rồi xuất hiện trên
báo chí, tuyển tập thơ. Tiếng ngâm lời đọc thổn thức trong các cuộc họp, các
buổi chia tay, các đêm cuối cùng… giữa một đất nước phải lâm chiến từng ngày
rồi lại hậu chiến trong xung đột biên giới tứ bề. Cái quý nhất là ở chỗ, Lời từ biệt và chiếc khăn thuộc vào
không nhiều các thi phẩm chính thống mang phong cách ngôn ngữ và sắc thái tình
cảm khác nhưng không quá lệch so với các sáng tác “chuẩn”, mà Cuộc chia ly màu đỏ của thi sĩ Nguyễn Mỹ
từng làm biểu tượng.
Gần như trung
thành với nguyên tác, hai bản dịch có cùng kết cấu và thi điệu. Khí thơ, cú
pháp và cách cảm, đọc lên thấy ngay là thơ dịch của phương Tây, nhưng không
“Tây gỗ” mà là Tây-Việt! Chữ và câu của bản Do.honza đôi chỗ chưa “lụa” bằng
bản của tiền bối nhưng toàn bài đã phả ra tình lứa đôi dưới trời Âu mang hồn
nhân loại. Giữ được chất Nezval. Bản của Do.honza mang nỗi đau mạnh, dứt khoát
hơn, và từ tâm trạng trai gái với cái Tôi cá thể. Bản của Tế Hanh đã “xã hội
hóa” nó trong cái Ta trữ tình rộng khắp.
Hai câu cuối
của khổ đầu thú vị đáo để! Ý tứ tinh vi trong nguyên tác được hai dịch giả chuyển
sang cung bậc đồng tình nhưng không đồng nghĩa. Do.honza: “Vĩnh biệt em dẫu có hẹn mai đây/ Anh không đến có thể người khác đến.”
Lời dịch mượt, bảo toàn ý tứ của tác giả; cho thấy sự khuất phục của anh con trai
thua cuộc mà vẫn hào sảng. Tế Hanh: “Từ biệt nhé và nếu còn gặp nữa/ Không phải
ta đấy trở lại đâu nào.” Trên cả tuyệt vời! Dịch giả đã dùng tay thơ “lụa” của một
thi nhân để bẻ ghi đưa ý tứ sang không gian tình cảm khác. Không chỉ bằng chủ
thể Ta, còn dùng cả dạng phủ định. “Không phải ta” của Tế Hanh chính là “người khác” của Do.honza được dịch gần
đúng từ “jiný host” (người chủ khác) của Nezval. Giản dị và trong sáng, da diết
và đau đớn. “Không phải ta” tức là “địch” rồi, là cái thằng đàn ông khác sẽ thay
thế “ta” ngự trị trái tim nàng. Các nam thanh nữ tú, hãy bình thản đón nhận
những lời từ biệt, những cái vẫy khăn để lên đường đến với một số phận khác,
đang chờ. Thi sĩ Nezval đã khuyên như thế!
Bài Cái chết hát ca của Fischer:
Bản dịch tỏ ra chạy theo kịp với cơn bão từ ngữ và hình ảnh của “nhà phù
thủy” Otokar Fischer trong văn học kinh điển châu Âu. Âm điệu thơ là tiếng vọng
từ các số phận an bài dưới Đấng tối cao, nhắc độc giả Việt nhớ đến những bài
thơ điên của thi sĩ bạc mệnh Hàn Mặc Tử. “Cái
chết hát ca soi gương nước rừng hoa (…)/ Cạn máu, chờ khô, dây đàn Chúa ngân
nga.” Bản dịch hầu như không có vết nhăn dù phải xử lý tạng thơ truyền thống
Séc với nhiều dụng điển.
Bài
Hoàng hôn bên biển của Dyk:
Có thể vào danh
sách các bản dịch đặc sắc trong trang thơ tiếng Việt đương đại. Một tiểu trường
ca dồn dập trong dịu dàng, khốc liệt trong thanh thản. Bài thơ khá dài nhưng
đọc không ngại, vì tứ thơ mang tính truyện rất hoàn hảo, kịch tính cao mà vẫn
lãng mạn. Người dịch đã dìu chúng ta theo từng cơn sóng thi điệu của Việt ngữ
đến với bản sắc văn hóa Tiệp Khắc đập trong mỗi lời mỗi nhịp.“Lớp sóng tám vỗ về và vui vẻ/ Vào mắt em,
lên bầu vú trẻ non”. Độc giả Việt Nam được biết thêm một triết lý về
sự vượt thắng số phận, về giới hạn cuối cùng của thành bại trong cuộc sống qua
biểu tượng trữ tình là “lớp sóng chín”.
Tôi còn yêu
thích các đóa hoa thơ Tiệp từ người chuyển giống trồng cây Do.honza, như: Bài Đêm xuân của Březina; Đôi giày - Con người, Phụ nữ, Thân tặng (Neruda); Tình yêu ốm yếu (Holan); Từ điển tình yêu (Nezval); Tiếng Séc; Có thể (Simon); Gọi đường dài (Sýs); Hội Thoại (Seifert); Cô gái dậy thì (Peterka); Vào
thu, Có thể anh tự sướng (Horáková);
Danh sách (Kainar); Trở lại (Fischer); v.v…
“Chuốt,
chuốt nữa, chuốt mãi”; hay là “Mẹ chăm bé gái”
Để Tuyển
tập tốt hơn nữa, chúng tôi xin thử nêu một số hạn chế, thiếu sót mà các tuyển
tập dịch thuật ít nhiều dính phải trong lần đầu xuất bản.
Dù theo phương
cách nào, bản chất của dịch là dịch lại. “Chuốt,
chuốt nữa, chuốt mãi…” Có lẽ nên là phương châm đầu tiên.
Lâu rồi, mỗi khi
động tới vụ việc dịch thơ lại dựng lên trong tôi hình ảnh một người đàn anh,
“bạn thư viện”. Gần như hàng ngày, anh đến Thư viện Quốc gia - Hà Nội. Khi trọn
cả ngày, khi chỉ nửa tiếng… Đọc sách, nghiên cứu phục vụ nghề khí tượng thủy
văn của anh. Và mỗi lúc giải lao, hoặc chán cái mớ công thức tích phân lằng
nhằng, anh lại lôi ra từ túi áo complet, hay túi sau quần, một cuốn sổ tay be
bé để dịch… thơ. Vâng, thơ. Thơ Pushkin. Chỉ Pushkin mà thôi. Anh dịch hàng
trăm bài; giống một người dịch chuyên nghiệp nào đó. Khác, mỗi bài đều dịch ngót
chục lần; với các bài “đinh” thì hàng chục lần. Cứ vậy hàng năm, hàng năm… Có
đôi kỳ giáp Tết, sau Tết, thư viện hóa thành chùa Bà Đanh. Vẫn thấy anh ngồi đấy,
cúi xuống Pushkin của tiếng Việt. Dạo đó tôi nghĩ rằng, có thể hiểu anh phần
nào và không thể hiểu nổi cuốn sổ nhỏ của anh. Giờ thì ngược lại. Không hiểu
anh. Hiểu cuốn sổ nhỏ như một vật được anh dùng để trau chuốt bản dịch.
Cũng dạo đó mẹ
tôi thì bảo anh ấy vuốt ve bản dịch như bà
mẹ Việt Nam chăm sóc bé gái của mình; từ phút lọt
lòng đến ngày bé thành con gái, từ ngày bé lên xe hoa đến ngày bé sinh con của
bé, rồi đến ngày con bé thành con gái, rồi lên xe hoa…
Đầu thế kỷ trước
bậc thi bá Tản Đà đòi hỏi “Lời văn chuốt đẹp như sao băng”. Đa phần cánh sáng
tác giành đặc quyền chuốt tùy hứng tùy tính. Chứ dân dịch thuật không chuốt, e
không ổn. Cả khi bản dịch đã xuất bản, đã nổi tăm vang tiếng.
Ngoài việc chuốt
lời, tôi còn thấy Tuyển tập cần được
chuốt bài nữa. Tức là cần tinh tuyển tác giả, tác phẩm hơn. Thêm người cần
thêm, bớt bài cần bớt… Các hợp tuyển là vậy, cứ lọc ra lựa vô hoài hoài…
Đọc Do.honza
dịch, tôi liều mà đồ rằng anh dịch-bài theo quan niệm chân phương của Fyodorov, còn dịch-chữ thì theo kiểu phóng túng “dịch thơ giống như
làm thơ”. Thế là hài hòa. Dịch giả tự chọn phương cách riêng, miễn sao có
bản dịch đáng là bản dịch. Có điều, kiểu dịch chữ đó không
có thao tác dấm dứ, nhấc lên hạ xuống. Tôi vẫn hằng tin, dịch thơ ẩn
trong mình nó một hành trình các chuỗi ngập
ngừng. Có những tiểu-ly-âm, tiểu-ly-từ đã
nuôi sống cả một bản dịch thơ. “Đấy” và “đâu” là các tiểu ly âm, tiểu ly từ như
thế trong câu thơ dịch của Tế Hanh. “Không phải ta đấy trở lại đâu nào”. Dịch, không còn là diệt là giết theo cái nhìn hà khắc nữa! Trong
Tuyển tập tôi cũng đã tìm được một số
trường hợp, mà chưa đáng kể.
Nếu thơ
là dòng suối tuôn trào tự nhiên thì dịch thơ là đài phun nước có điều khiển ở
đâu đó mà những kẻ dạo bước trong khuôn viên thi ca khó nhận ra. (Trong rừng
thơ dịch trên trái đất này, chắc chỉ có Trung niên thi sĩ là dịch như thác lũ!)
Nếu thi sĩ là kẻ hành pháp, là ngài bộ trưởng, là vị tướng quân phóng tay thực
hành một sắc lệnh, một chiến dịch thì giới dịch giả như hệ thống tư pháp, như quan
tòa phán xét, chuyển hóa các thực thi công lý của ngôn từ và tình cảm con người.
Phần tiểu sử chân dung tác giả cũng còn không ít
chỗ cần hoàn thiện; như dẫn nguồn tư liệu, nhuận sắc ý, câu…
Điều nữa, lẽ thường tình, ông chủ nhà hàng nào thực
đơn nấy. Tuyển tập phải thuộc về thị
hiếu của Do.honza Đỗ Ngọc Việt Dũng, người dịch - biên soạn và cũng là nhà thơ
song ngữ Việt-Séc tham gia vào đấy như tác giả của 4 sáng tác về tình ái, khát
vọng sống. Phong cách trữ tình khiến bộ sưu tập thiếu vắng các thi phẩm bừng lên
những biến động khi gai góc nhân quần, lúc sinh tử chiến tranh của xã hội và
con người Tiệp Khắc suốt thế kỷ qua mà bài Diễn từ Nobel của Seifert nêu trên đã gióng giả như những lời cuối cùng còn
có thể nói ra được. Trong tập sách, 4 bài thơ của Seifert (Bài ca, Biển, Chiếc nhẫn mẹ để lại, và Hội thoại) ca tụng tình yêu, hạnh phúc qua
những chân lý nhân bản và quả là chưa hết tầm thi nhân, như vinh danh của Viện hàn
lâm Thuỵ Điển và đánh giá của dư luận văn giới. Các bài thơ thời cuộc, chính
trị của ông từng “mô tả hình tượng rành mạch của tinh thần và sự đa dạng không
thể khuất phục của con người”, và “mang ý thức độc
lập, biết dùng ngôn ngữ thơ ca làm vũ khí hữu hiệu để đấu tranh vì nền độc lập
cho Tổ quốc Séc”.
Làm bạt
Nhiều năm trước, tôi từng có bài thơ Làm bạt cho đời - để nói bao nhiêu dòng
thơ của đám thi sĩ chúng ta nếu như được đời cho phép cùng dự phần, thì may lắm
là làm lời bạt cho pho-sách-cuộc-đời.
Nay tôi đang có hãnh diện nho nhỏ được
làm “trang bạt” cho người đồng nghiệp - người anh em, dịch giả Do.honza Đỗ Ngọc
Việt Dũng, trong một dịch phẩm nồng thắm về tình cảm, cao cả về ý tưởng và đáng
giá về nội dung: Tuyển tập thơ Séc &
Slovakia của Nhà xuất bản
Hội Nhà văn năm 2014.
Vancouver, mùa thu 2014
Đỗ Quyên
[1]) Sẽ được gọi tắt là Tuyển tập ở nhiều chỗ trong bài.
[2]) Dương Tất Từ có 2 dịch phẩm thơ: tập Thành phố tội lỗi - thơ Tiệp Khắc thế kỷ
20, NXB Thế Giới, 2000; và Seifert: Làm
thi sĩ, tuyển thơ và hồi ký, NXB Văn Học, 2007. Diễm Châu có tập Thơ Vladimír Holan,
NXB Trình Bầy, 1992; và nhiều thơ dịch từ một số nhà thơ Tiệp Khắc đương đại,
như J.
Seifert, A. Bartušek… Có thể kể thêm dịch giả quen thuộc khác của văn học
Séc là Lương
Duyên Tâm, và gần đây là dịch giả Thân Trọng Sơn.
[4]) Các câu in nghiêng trong dấu ngoặc kép là trích từ Tuyển tập thơ Séc & Slovakia.