Hải Hà: Thưa nhà thơ Đỗ Quyên, được biết ông có quá trình hoạt động văn chương lâu năm tại các nước châu Âu như Nga, Đức rồi qua Úc, Canada. Ông có thể kể khái quát hiện trạng văn học Việt Nam ở ngoài nước?
– Đỗ Quyên: Trước và trong thời Đổi mới 1986 – 1989 hầu như bạn đọc trong nước không có thông tin là bao. Một số ít bài tổng quan đầu tiên và có giá trị của các tác giả trong nước về văn học Việt ở ngoài nước đã được thực thi bởi Nguyễn Huệ Chi, Phạm Xuân Nguyên, Hoàng Ngọc Hiến. Và các bài tương tự của các tác giả ở ngoài nước như Võ Phiến, Đặng Tiến, Nguyễn Mộng Giác, Nguyễn Xuân Hoàng… được lan truyền không chính thức ở trong nước mà chủ yếu giữa một số ít nhà nghiên cứu, nhà văn.
So với 2 bài tôi viết trước đây (mời xem chú thích), có 5 điểm khác của văn học Việt ngoài nước trong mươi năm qua:
1) Sự hiểu và sự biết giữa văn giới trong-ngoài Việt Nam mạnh hơn bao giờ hết, về quan hệ, giao tình cũng như trong sáng tác, thông tin. Song riêng về quan hệ, thật tiếc là ở không ít tác giả, báo chí, cơ quan quan trọng của cả trong lẫn ngoài sự hiểu nhau và biết nhau đó không/chưa đưa đến sự chia sẻ, đồng cảm, đồng điệu.
2) Tính phân tán trong sáng tác cao hơn trước về nội dung, nghệ thuật, và về cách phổ biến tác phẩm;
3) Càng rất khó định danh chính xác đâu là đề tài chính của dòng văn học này;
4) Lối thơ Tân hình thức Việt lại “xung” hơn về mặt diễn đàn, xuất bản sách báo, còn chất lượng lại không khá hơn trước. Nhấn mạnh: Thơ Tân hình thức Việt chính là thành quả giao lưu mạnh nhất, đẹp nhất giữa văn chương trong-ngoài mà công đầu thuộc về tạp chí Sông Hương và Báo giấy “Thơ Tân hình thức” qua đại diện là nhà thơ Hồ Đăng Thanh Ngọc (trong) và Khế Iêm (ngoài);
5) Ít có tác phẩm, tác giả tạo sự kiện lớn ở ngoài này lẫn bên nhà như mươi năm trước.
Còn 3 đặc điểm lớn của sinh hoạt văn học Việt ngoài nước từ sau 1975 thì trong 10 năm gần như ít thay đổi:
1) Nguồn gốc: Không kể ở các nước Đông Âu, Liên Xô cũ, đấy là dòng chảy tiếp tục của văn chương miền Nam trước 1975;
2) Mục đích: Giải tỏa trăn trở về thời cuộc, hơn cả là về chính trị (nhất là ở những cây bút từ thời chính quyền Việt Nam Cộng hòa) và gần đây về bảo toàn lãnh thổ, biển đảo, an toàn môi trường ở Việt Nam. Chính do mục đích viết để “giải tỏa” mà tính co cụm, bè phái của văn học ở ngoài nước phải nói là cao. Phụ thuộc vào chính kiến của từng nhóm.
3) Cảm hứng viết: Ý thức tự do và cá nhân.
Hải Hà: Nhiều người đã nói về sự khác biệt của văn học Việt Nam trong nước và ngoài nước. Tôi lại muốn biết điểm gặp nhau của văn học Việt Nam trong nước và ngoài nước là gì?
– Đỗ Quyên: Câu hỏi hay! Thú thiệt, tôi chưa được đọc ở đâu cách hỏi tương tự. Thưa vâng, theo tôi, có ít nhất 2 điểm chung của 2 dòng văn học ấy.
Một là cùng viết tiếng Việt và tạo ảnh hưởng lớn đến độc giả Việt. Hiển nhiên với văn học trong nước lâu nay, nhưng với văn học ngoài nước điều đó không chỉ là một hình thức hiển nhiên. Văn hóa tiếng Việt ở ngoài Tổ quốc hình thành từ rất lâu. Còn văn học Việt ở ngoài nước, đặc biệt phần chính là văn học hải ngoại thì chỉ sau 30.4.1975 mới thật sự được coi như một thực thể văn học. Sáng tác văn học của người Việt viết bằng tiếng Việt và một số tiếng ở quốc gia thứ hai đã thực sự làm nơi chốn thiết yếu để khối 4 triệu người Việt ở ngoài nước vịn vào mà đứng lên trong đời xa xứ của mình.
Hai là cùng phát triển chậm, chưa xứng với kỳ vọng của độc giả. Các tác giả ở ngoài nước chúng tôi chịu lỗi nhiều.
Hải Hà: Đọc những tác phẩm của các nhà văn xa xứ, luôn có một điểm chung là nỗi nhớ thương hướng về nguồn cội. Ông có thể nói rõ hơn điều này trong các tác phẩm của mình?
– Đỗ Quyên: Vâng, hiếm tác giả nào có bàn viết ở ngoài biên giới lại không sáng tác ít nhiều về cái gọi là tình hoài hương, và cao hơn là hướng về xuất xứ của mình – đó là quê cha đất mẹ, nguồn cội tổ tiên. Tôi còn muốn xem đó chính là hàn thử biểu cho tâm thức văn nghệ sĩ. Và nó cũng là rào cản, nếu văn nghệ sĩ chỉ tối ngày khai thác đề tài này. Một nhà văn xa xứ chỉ trưởng thành sau khi đã biết cách “chùi nước mắt” (cách nói của nhà thơ Đỗ Kh. ở Mỹ), biết hóa nước mắt thành máu nuôi các đề tài khác. Trong thơ tôi có các câu ở “thời kì nước mắt” như: “Anh còn lại một ngày/ Mà Đông phương xa quá/ Ơi Đỗ Quyên mãi là/ Cánh chim buồn không xứ.” (Trường ca Buồn muộn cùng thế kỷ) Hoặc: “Bản đồ Việt Nam trên đầu giường/ Hình Tổ quốc như chiếc đinh giáng xuống” (Trường ca Năm năm lìa nước)
Hải Hà: Cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 đã ảnh hưởng sâu sắc đến nhân loại, tất nhiên bao gồm cả văn chương. Ông có thể cho độc giả trong nước biết Internet đã tác động thế nào đến văn học Việt Nam ở ngoài nước.
– Đỗ Quyên: Hồi 1991 ở Đức khi rủ rê chúng bạn lần đầu tiên trong đời mầy mò làm báo tự phát (bằng cách thủ công: đánh máy chữ, bỏ dấu tiếng Việt bằng tay, ghép tranh ảnh, cắt dán từng trang lẻ rồi photocopy, đóng lại thành “báo”) tôi đâu ngờ Internet đã làm khuynh đảo thiên địa bắt đầu từ 1990 cho tới 2000 cũng như về sau…
Thật tình tôi vẫn không thể hiểu vì sao kỹ thuật – công nghệ nó “bay như hỏa tiễn”, trong khi suy nghĩ, sáng tác của mình thì như “cưỡi trâu”. Trước đây có tạp chí – in giấy – Hợp Lưu là một, báo mạng Talawas là hai, tạp chí rồi mạng Tiền Vệ là ba; và mạng Da Màu đang vẫn còn sống bảnh là bốn…
Khác ở một số bộ môn văn nghệ, trong văn học việc sáng tác hay-dở không phụ thuộc vào phương tiện sáng tác. Tôi không thấy Internet đã ảnh hưởng đến chất lượng văn học Việt ở ngoài này. Còn số lượng cũng chưa hẳn đã tăng? Mà có thể giảm, vì sự tan rã của các diễn đàn, báo chí kéo theo giảm hứng thú sáng tác của từng nhà văn. Bản thân tôi vẫn ngờ rằng chất lượng và số lượng tác phẩm của mình dù có tăng lên nhưng lại không đến từ bàn phím?
Tôi và các đồng nghiệp từ khắp nơi đã cùng các bạn ở trong nước làm được Bàn tròn mạng Diễn đàn Trí thức Việt Nam (2001) và Hội luận Văn học Việt Nam (2008). Tuy là các diễn đàn ngắn hạn nhưng cả hai đã được dư luận ghi nhận là các địa chỉ đầu tiên của văn nghệ sĩ – trí thức Việt Nam ở trong và ngoài nước cùng gặp nhau “trên trời” giữa các vấn đề rộng lớn sát sạt mặt đất của văn chương – văn hóa nước nhà.
Hải Hà: Hiện nay văn học trong nước có 2 quan niệm: một số ủng hộ cái gọi là “xã hội hóa Thơ”, tức là các câu lạc bộ Thơ, hội nhóm Thơ xuất hiện từ thôn, xã, phường… Mà như thế, ai cũng có thể trở thành “nhà thơ” và có thể in sách, tung hô nhau nhiễu loạn. Một số khác lại quan niệm “chuyên nghiệp hóa Thơ”, tức là nhà thơ phải học trong trường lớp chuyên ngành, có sự hướng dẫn kĩ năng từ các nhà thơ tên tuổi đi trước rồi sau đó phải trở thành hội viên của một hội văn chương danh giá thì mới có thể gọi là “Nhà thơ chuyên nghiệp”. Ông có thể cho biết văn học ở một số nước khác có tình trạng này không.
– Đỗ Quyên: Xin có vài ý riêng. Sự giằng co giữa 2 quan niệm tôi thấy không cần thiết và khó có thể san định ai thắng ai. Xã hội và văn chương Việt mình từ xưa tới nay đã bị cái danh làm u mờ cái thực. Đó là gốc của vấn nạn. Thật ra, đâu dễ định nghĩa, định danh “nhà thơ” khi chỉ dùng các hình thức vừa nêu. Một xã hội văn minh, một nền văn học chân chính cần dung hòa để hai cách cùng được tự do thể hiện mình, sao cho “nước sông không phạm nước giếng”.
Tại các nước tôi từng sinh sống, ngay cả ở nước Nga những năm cuối thập niên 1980, dường như không thấy có câu chuyện loạn thơ như thế. Tôi cũng nhận ra, ngay như ở Canada hiện giờ, thơ “chẳng là cái đinh mục gì” trong xã hội đại chúng thường nhật; còn trong vòng hàn lâm, đại học, thư viện… thơ luôn là một trong các đỉnh cao.
Tiêu chí nghệ thuật đầu tiên và cuối cùng của thơ là hay; và cũng cần có sự phân định loại hình giữa thơ đại chúng và thơ chuyên nghiệp.
Tôi muốn được đưa ra cách gọi như sau, thiển nghĩ vừa có lý về nội dung lại có tình về hình thức: Thơ-Văn-Hóa Và Thơ-Văn-Học. Tỷ như, thơ Nguyễn Bảo Sinh không thể gọi là Thơ Văn Học; đó là thơ đại chúng, mang phẩm chất văn hóa cao và là thơ hay. Thơ Đồng Đức Bốn hiển nhiên là Thơ Văn Học và mang nhiều sắc thái đại chúng, văn hóa đến mức xuất thần: “Ối mẹ ơi vỡ đê rồi/ Mộ cha liệu có lên giời được không?”
Góp ý nhỏ: Cách nói “xã hội hóa Thơ” dễ bị hiểu nhầm là kỳ thị Thơ Đại Chúng/Thơ Văn Hóa – một dòng thơ chảy suốt chiều dài lịch sử và văn hóa dân tộc Việt, từ đó sản sinh ra ca dao vốn là một thể loại văn học, một sản phẩm văn hóa có thể không nhiều ngôn ngữ trên thế giới được sở hữu như ở tiếng Việt.
Chẳng thể sùng bái việc đào tạo văn nghệ sĩ, nhất là thi sĩ. Thế nhưng nhà văn, nhà thơ cần qua trường lớp ở bậc đại học hoặc tương đương đã là một thực tế sáng rỡ khó phủ nhận: Liên Xô qua Đại học Viết văn Maxim Gorky; Việt Nam qua Trường Viết văn Nguyễn Du, từ năm 1996 đến nay là Khoa Viết văn – Báo chí Trường Đại học Văn hóa Hà Nội. Tại các nước phương Tây như Anh, Hoa Kỳ, Canada, ở các đại học có khoa học nhân văn thì dễ dàng tìm thấy khoa viết văn (Creative writing); chưa kể các khóa học không định kỳ không chỉ dành cho sinh viên (Literary fiction workshop).
Hải Hà: Ông là một người rất ủng hộ cho trường phái thơ Hậu hiện đại. Theo ông nó có thể trở thành một trào lưu thơ Việt trong tương lai?
– Đỗ Quyên: Hậu hiện đại vốn là chuyện dễ gây tranh cãi, không chỉ trên thế giới từ lâu mà cả ở Việt Nam mươi năm qua. Một “hỏa tiễn” ở ngoài nước về Hậu hiện đại trong thơ trên cả 3 mảng sáng tác, dịch và biên khảo là Ngu Yên cho rằng: “Khó mà phân định chính xác ranh giới thời điểm giữa thời kỳ Hiện đại và thời kỳ Hậu hiện đại. Ngay cả chủ nghĩa Hiện đại chấm dứt lúc nào, chủ nghĩa Hậu hiện đại bắt đầu từ bao giờ, cũng không có câu trả lời đồng thuận giữa các chuyên gia nghiên cứu lịch sử văn học Tây phương.”
Theo tôi thấy, từ các năm cuối thập niên 1990 và đầu thập niên 2000 một lối viết khác lạ tạm gọi là Hậu hiện đại, không chỉ trong thơ, đã trở thành hướng sáng tác mới của văn chương Việt ngoài nước và rất nhanh sau đó là ở Việt Nam. Phải nói là các nhà thơ gốc Việt ở Mỹ như Nguyễn Hoàng Nam, Đỗ Kh., Nguyễn Đăng Thường… cùng các dịch giả, nhà phê bình gốc Việt ở Úc là Nguyễn Hưng Quốc, Hoàng Ngọc Tuấn… đã đi đầu. Dần dần tới một “trào lưu Hậu hiện đại” trong văn học tiếng Việt nói chung, có lẽ khoảng các năm 2007 – 2010 mà mạnh hơn cả là ở Sài Gòn. Bản thân tôi cũng vô thức nhập cuộc lúc nào không hay, qua các trường ca Thơ Thời Gian (2005), Trường ca Thơ Sao (2009), Trường ca Song Sinh (2010); rồi nối tiếp qua 2 cuốn tiểu thuyết Trung-Việt Việt-Trung (2016) và Đẻ Sách (2018).
Để hiểu văn chương Hậu hiện đại đã và đang trở thành một thực thể rất bình thường trong sự bất thường của riêng nó ở Việt Nam, tôi có 3 ví dụ còn nóng:
1: Với tập trường ca Phồn sinh (xuất bản năm 2018 tại Hà Nội) của Nguyễn Linh Khiếu, trong nhiều tháng qua trên báo chí ở trong nước đã công bố chừng 2 tá bài phê bình, nhận định khen ngợi, cổ súy… Là kẻ trong cuộc cả ở trường ca lẫn Hậu hiện đại, nhiều năm trước tôi đã được tác giả cho đọc bản thảo “từ trong trứng”.
2: Bài tiểu luận của Đào Cư Phú mang tên “Sự pha tạp sắc màu ngôn ngữ trong tiểu thuyết Hậu hiện đại” trên Văn Nghệ Quân Đội giữa tháng 11 này, tác giả đã minh họa qua các tác phẩm của nhiều cây bút nổi tiếng trong và ngoài nước là Hồ Anh Thái, Nguyễn Bình Phương, Thuận, Nguyễn Việt Hà và Đặng Thân.
3: Một thi sĩ có tên tuổi làm thơ Hậu hiện đại với vài tác phẩm khá nổi tiếng bên cạnh chút tai tiếng, vừa viết trên FB của mình:“Nghiên cứu về thơ Hậu hiện đại ở Việt Nam rất tiếc là chưa có công trình nào nghiêm túc đáng tin cậy và thực sự khoa học (…)! Đây đó manh mún, khoác lác, viết sai sự thật, bè phái, cánh hẩu và tuyệt nhiên không có một kiến thức gì hiểu biết về Hậu hiện đại! Có những ông đi đâu cũng vỗ ngực Tân hậu hình thức hiện đại mà thực ra không hiểu gì về nó cả! Lại viết bậy bạ tung hô chính mình và đám cánh hẩu nữa! Tội nghiệp!”
Còn một người rất quan tâm chuyện Hậu hiện đại ở xứ ta: nhà thơ, nhà nghiên cứu-phê bình Inrasara cũng nêu ý kiến trên FB một câu nói từ năm 2009: “Nhà văn Hậu hiện đại là kẻ có thể theo dõi các trào lưu triết học mới nhất trên thế giới đồng lúc vẫn cặm cụi đi vào cuộc sống nông thôn lượm nhặt từng dòng ca dao, từng câu tục ngữ hoặc sẵn sàng mở cuộc điều tra nạn trộm cắp gà ngay tại làng mình sống để giúp chính quyền địa phương giải quyết tệ nạn xã hội. Mà không vấn đề gì cả!”
Chàng thi sĩ gốc Chăm ấy còn vừa mở một bàn tròn ở TP.HCM mang tên “Thế nào là nhà văn Hậu hiện đại & Thái độ Hậu hiện đại?”
Hải Hà: Điều cuối cuộc trò chuyện, tôi muốn hỏi: Ông có mong ước gì cho văn học Việt Nam?
– Đỗ Quyên: Theo dõi văn tình tôi thấy các quan tâm tương tự thường tụ lại ở: Bao giờ nước Nam dân Việt mình ẵm giải Nobel văn chương? Cớ sao văn học ta chưa có nhiều tác phẩm xứng tầm thời đại? Mần răng để quảng bá văn học Việt Nam ra quốc tế? Thật lòng, tôi cũng vân vi không dưới ba lần. Thậm chí – cho mở lòng nhé – còn tự cho phép phải có bổn phận với các câu hỏi trên!
Nhưng ngay lúc này, bị hỏi trực tiếp, tôi vụt trở về con người thực tế. Khi chưa với được quả táo trên cành cao thì chú cào cào bò dưới đất cũng là của giời cho: Tôi thực sự mong cho các sáng tác bằng tiếng Việt ở khắp nơi hãy tạo nên một dòng văn học đàng hoàng và tử tế, trước hết là trong chính lãnh địa của mình, sau làm cho cái tử tế đó, cái đàng hoàng ấy trở thành của tất cả.
Hải Hà: Rất cám ơn nhà thơ Đỗ Quyên đã dành thời gian chuyện trò. Chúc nhà thơ sức khỏe và nhiều ý tưởng sáng tạo!
Cuối tháng 11.2019
HẢI HÀ thực hiện
Chú thích:
– Đỗ Quyên: “Văn học Việt ở ngoài nước trong các năm 2005-2010”: https://sites.google.com/site/vanhocviet2013/tu-lieu-van-hoc-1/chuyn–trit-hc—vn-ha-hc-v-vn-hc/–quyn-vn-hc-vit–ngoi-nc-trong-cc-nm-2005-2010
– Đỗ Quyên & Phan Thắng: “Toàn cầu hóa là một định mệnh khả ái”
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét